Friday, October 12, 2012

Điểm Dối Lừa - Chương 122

Vẫn mặc nguyên bộ đồ ngủ, Zach Herney đang ngồi bên bàn làm việc, trong phòng bầu dục, đầu ong ong. Ông vừa được thông báo về một rắc rối mới.
Marjorie Tench đã chết.
Các trợ lý của Herney nói rằng họ có thông tin cho thấy Tench đã lái xe đến đài tưởng niệm FDR để gặp riêng William Pickering.
Giờ đây, khi cả Pickering cũng mất tích, mọi người đang lo rằng cả ông ta cũng đã bị sát hại.
Gần đây, Tổng thống đã có những bất đồng đáng kể đối với Pickering. Cách đây mấy tháng, ông được biết Pickering đã mượn danh ông để làm một số chuyện phi pháp với lí do là để bảo vệ cho uy tín của Tổng thống đang tạm thời bị uy hiếp.
Sử dụng phương tiện và nhân lực của NRO, Pickering đã bí mật thu thập khá nhiều thông tin về sự đồi bại của Thượng nghị sĩ Sexton, đủ để đánh đắm chiến dịch tranh cử của ông ta - những bức ảnh chụp ông Thượng nghị sĩ đang giao hoan với trợ lý thân tín Gabrielle Ashe, những con số và tài liệu chứng minh Sexton đã nhận tiền hối lộ của các công ty vũ trụ tư nhân.
Pickering đã nặc đanh gửi tất cả những tài liệu đó đến cho Tench và cho rằng Nhà Trắng sẽ sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Nhưng ngay khi nhìn thấy những tài liệu ấy, Tổng thống đã cấm tuyệt đối không cho Tench được động đến chúng.
Những vụ bê bối tình ái và nhận tiền hối lộ chẳng khác nào căn bệnh ung thư của thành phố Washington này, và đem công khai thêm một vụ nữa chỉ càng làm người dân mất lòng tin vào Chính phủ mà thôi…
Sự hoài nghi sẽ huỷ hoại đất nước này.
Dù biết rằng mình có thể đánh bại đối thủ, nhưng Herney từ chối làm điều đó, vì cái giá phải trả sẽ là thanh danh hoen ố của Thượng nghị viện Hoa Kỳ.
Không dùng các biện pháp tiêu cực, Herney sẽ chiến thắng Sexton bằng các phương cách khác.
Tức tối khi thấy Nhà Trắng không sử dụng những tài liệu mình công bố, Pickering đã tự tay xì thông tin cho cánh báo chí rằng Sexton đã ăn nằm với Gabrielle Ashe. Rủi thay, Sexton đã khẳng định sự vô tội của ông ta một cách thuyết phục và đầy công phẫn đến nỗi chính Tổng thống đã phải lên tiếng xin lỗi. Rốt cuộc thì William Pickering chỉ gây thêm thua thiệt. Và Herney đã nói thẳng với Pickering rằng nếu còn tiếp tục can thiệp thô bạo kiểu đó nữa thì ông ta sẽ bị truy tố. Khôi hài là ở chỗ William Pickering chẳng yêu mến gì Tổng thống Herney. Những nỗ lực của Giám đốc NRO chẳng qua là để cứu nguy cho NASA. Trong số hai con quỷ thì Herney có vẻ ít hung dữ hơn.
Chẳng lẽ có kẻ đã sát hại Pickering rồi sao?
Herney không thể tin nổi.
- Thưa Tổng thống. - Một trợ lý lên tiếng. - Theo lệnh của Tổng thống, tôi đã liên lạc với Lawrence Ekstrom và thông báo với ông ấy chuyện của Marjorie Tench.
- Cảm ơn anh.
- Ông ấy muốn nói chuyện với Tổng thống.
Herney vẫn còn rất giận Ekstrom vì đã nói dối về PODS. - Bảo ông ta là sáng mai tôi mới có thời gian.
- Ông Ekstrom muốn nói chuyện với Tổng thống ngay bây giờ ạ? - Người trợ lý có vẻ miễn cưỡng. - Trông ông ấy rất lo lắng!
- Ông ta lo lắng sao? - Herney không thể kìm chế nổi cơn giận dữ.
Vừa sải bước đến bên máy điện thoại, ông vừa băn khoăn không hiểu ông ta còn có điều gì muốn nói nữa đây.

Điểm Dối Lừa - Chương 120

Chiếc trực thăng Kiowa đang lượn trước mũi con tàu Goya, Delta-Một đang cúi gập người xuống để nhìn, mắt anh đang chứng kiến một tình thế không thể tưởng tượng nổi.
Michael Tolland đang đứng trên boong tàu, cạnh chiếc tàu lặn cỡ nhỏ. Delta-Hai đang bị treo lủng lẳng trên hai cánh tay máy của chiếc tàu lặn - như thế vừa bị một chú côn trùng khổng lồ bắt làm tù binh - và đang bất lực giãy giữa trong hai cánh tay thép khổng lồ.
Lạy Chúa lòng lành! Cái gì thế không biết?
Rachel Sexton cũng vừa chạy lên boong, đang đứng ngay cạnh một người bị trới giật cánh khuỷu ngay bên chiếc tàu lặn. Chắc chắn đấy là Delta-Ba. Như thế muốn thách thức họ, Rachel đang chĩa súng máy lên trời, loại súng máy đặc biệt chỉ đội Delta mới được trang bị.
Delta-Một thực sự choáng váng, anh không thể hiểu nổi làm sao mà lại thảm hại đến thế. Sai sót của đội Delta trên phiến băng Milne quả là hi hữu, nhưng còn có thể lý giải được. Nhưng sự kiện này thì quả là không tưởng…
Chỉ nguyên thế thôi cũng đã sượng mặt lắm rồi, thế mà đêm nay trên máy bay của Delta-Một còn có một nhân vật vô cùng quang trọng. Sự hiện diện của ông trong một điệp vụ kiểu này gần như là ngoại lệ, nỗi nhục này quả là không lời nào tả xiết.
Đó chính là chỉ huy.
Sau phi vụ ám sát tại chân đài tưởng niệm FDR, chỉ huy yêu cầu anh cho máy bay đáp xuống công viên vắng vẻ gần Nhà Trắng.
Delta-Một được lệnh tiếp đất tại gò nhỏ khuất trong lùm cây. Chỉ huy đã đợi trước ở chỗ tối, và lập tức sải bước lên máy bay. Chỉ sau vài giây, chiếc máy bay lại tiếp tục lao đi làm nhiệm vụ.
Dù rất hiếm khi chỉ huy trực tiếp có mặt trong khi đội của anh thi hành nhiệm vụ, Delta-Một không thể phản đối. Do quá thất vọng sau những gì đội Delta đã làm trên phiến băng Milne, và sợ rằng những sơ suất tương tự có thể dẫn tới những nghi ngờ không cần thiết chỉ huy đã tức thời quyết định là sẽ trực tiếp đôn đốc họ.
Giờ đây, chỉ huy đang tận mắt chứng kiến một thất bại ê chề vô tiền khoáng hậu trong lịch sử đội Delta.
Phải kết thúc chuyện này. Ngay lập tức.
Từ trên chiếc trực thăng Kiowa, chỉ huy nhìn xuống boong tàu Goya và cũng không thể hiểu nổi. Mọi thứ đều không theo đúng kế hoạch - những nghi ngờ về tảng thiên thạch, cuộc hành quyết bất thành của đội Delta trên phiến băng Milne, rồi vụ ám sát bất đắc dĩ tại đài tưởng rùệm FDR.
- Thưa chỉ huy, - mắt vẫn đang nhìn xuống con tàu, Delta-Một lắp bắp, giọng bẽ bàng - tôi không thể tưởng tượng nổi..
Cả tôi cũng thế đây, chỉ huy nghĩ thầm. Rõ ràng là họ đã đánh giá quá thấp đối thủ của mình.
Chỉ huy cúi xuống nhìn Rachel Sexton. Tay cầm máy điện đàm, cô gái đang nhìn thẳng vào tấm kính phản quang ở cửa sổ máy bay. Khi những lời nói của cô vang lên từ giàn thiết bị âm thanh trên máy bay Kiowa, chỉ huy tưởng rằng cô sẽ yêu cầu tắt hệ thống gây nhiễu để Tolland gọi người đến cứu. Nhưng không, những gì cô nói đáng sợ hơn thế.
- Các người đến muộn mất rồi. - Rachel khẳng định. - Ngoài chúng tôi ra, một người khác đã biết chuyện này.
Những từ ngữ ấy như lấp đầy khoang máy bay mất một lúc.
Khả năng tuyên bố đó là thật đã khiến chỉ huy lưỡng lự, dù thoạt đau nó có vẻ chẳng ăn nhập gì với tình huống của họ. Muốn đảm bảo thành công cho kế hoạch, họ cần phải tiêu diệt hết những ai biết sự thật; và sau khi đã giết chừng ấy mạng người, chỉ huy cần phải đảm bảo một cách chắc chắn là những hành động của họ không uổng phí.
Thêm một người nữa biết…
Rachel Sexton vốn là người nghiêm ngặt tuân thủ những quy định bảo mật thông tin, nên chỉ huy không tin là cô đã chia sẻ những thông tin thu lượm được với bất kỳ ai không liên quan trực tiếp đến vụ này.
Những lời nói của Rachel lại lần nữa vang lên trong máy bộ đàm:
- Lùi lại thì tôi sẽ bảo đảm mạng sống cho người của các anh. Cố tình tiếp cận thêm nữa thì họ sẽ chết. Dù thế nào thì sự thật cũng sẽ bị phơi bày. Đừng giết người nữa. Lùi lại đi.
- Cô nói dối. - Biết rằng máy tính sẽ làm biến đối chất giọng thật của mình, chỉ huy cất tiếng. - Cô chưa kịp báo với ai hết.
- Anh thật sự tin là thế sao? - Rachel đáp ngay. - Vì không thể liên lạc được với William Pickering nên tôi đã báo tin cho một người khác để phòng trường hợp bất trắc.
Chỉ huy nhíu mày. Quả là đáng gờm.
- Bọn chúng không tin thì phải. - Rachel nói với Tolland.
Anh chàng đang bị cánh tay máy treo lơ lửng cười khẩy trong đau đớn.
- Khẩu súng đó hết đạn rồi, và chiếc phi cơ này sẽ cho cả hai người xuống địa ngục ngay lập tức cho mà xem. Các người chẳng thể sống nổi đâu. Tốt nhất là thả bọn ta ra.
"Chết tiệt," Rachel thầm nghĩ, băn khoăn không biết nên làm gì tiếp, rồi cô quay sang anh chàng đang bị trói giật cánh khuỷu và nhét giẻ vào mồm đang nằm trên boong. Mất nhiều máu, trông anh ta có vẻ đã rất yếu. Rachel cúi xuống, nhìn vào đôi mắt dữ dằn của người lính đó.
- Tôi sẽ lấy cái giẻ trong mồm anh ra. Anh hãy nói vào máy bộ đảm bảo họ cho máy bay lùi lại. Hiểu chưa?
Anh ta gật đầu vẻ khuất phục.
Nhưng miếng giẻ vừa được lấy ra thì anh ta đã lập tức phun đầy mặt Rachel những máu hoà lẫn với nước dãi trong miệng.
- Đồ chó! - Anh ta hổn hen nói. - Không đời nào tao làm thế. Họ sẽ giết chết mày như giết súc vật, và tao sẽ thưởng thức cảnh đó.
Rachel chùi máu và nước dãi trên mặt, Tolland kéo cô lại phía sau, giúp cô đứng vững, rồi cầm lấy khẩu súng máy trên tay cô.
Hình như ông đã quyết. Tolland bước đến bên bàn điều khiển gần đó, tay cầm cần gạt, mắt không rời gã đội viên Delta đang nằm trên boong.
- Mày tự đếm đến hai đi, - Ông nói - Rồi trắng mắt ra mà nhìn.
Tolland gạt cần, vẻ mặt giận dữ và sắt đá. Một cánh cửa giật lớn ở boong bên dưới mở toang. Anh chàng đội viên Delta hú lên đầy kinh hãi, rồi biến mất. Ngã nhào xuống lỗ cửa rộng đó, rồi rơi tõm xuống mặt nước cách đó mười mét. Nước toé lên đỏ lòm, anh ta bị lũ cá mập xé xác ngay tắp lự.
Giận run lên, chỉ huy nhìn xuống dòng hải lưu chảy xiết. Nước biển ngầu lên màu máu. Mấy con cá mập đang tranh nhau rỉa một cánh tay của Delta-Ba.
Lạy Chúa tôi.
Chỉ huy nhìn lên boong tàu. Delta-Hai vẫn bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy, và lúc này con tàu ngầm mini Triton đang lơ lửng ngay trên cánh cửa giật đã mở sẵn. Delta-Hai đang chới với.
Tolland chỉ cần gạt cần một lần nữa là anh ta sẽ hết đời.
- Được rồi. - Ông nói vào máy bộ đàm. - Dừng lại, dừng lại đã!
Từ mặt boong, Rachel ngước nhìn lên. Dù đang ở tít trên cao, chỉ huy vẫn cảm nhận được lòng quyết tâm đang ngời lên trong mắt cô gái. Rachel đưa máy bộ đàm lên sát miệng.
- Các người vẫn chưa tin à? - Cô nói. - Hãy gọi đến tổng đài của NRO, xin số của Jim Samiljan ở Ban Quan hệ công chúng. Tối nay anh ấy trực, và tôi đã cho anh ấy biết toàn bộ sự thật về tảng thiên thạch. Anh ấy sẽ xác thực điều đó.
Lại còn tên tuổi đàng hoàng nữa cơ à? Có vẻ không thật lắm.
Rachel Sexton không phải là người khờ khạo, nhưng chỉ cần vài giây là chỉ huy sẽ biết ngay sự thật. Dù chỉ huy nghĩ rằng không có ai tên là Jim Samiljan làm việc cho NRO, nhưng tổ chức này quá lớn. Biết đâu Rachel nói thật. Trước khi xuống tay, chỉ huy cần phải biết rõ sự thật.
Delta-Một quay sang chỉ huy.
- Chúng ta tắt thiết bị gây nhiễu sóng để chỉ huy gọi về kiểm tra nhé?
Chỉ huy cúi nhìn xuống tàu, cả Rachel lẫn Tolland đều đang ở trên boong. Nếu họ sử dụng điện thoại di động hoặc máy phát vô tuyến thì Delta-Một sẽ lập tức kích hoạt bộ phận gây nhiễu sóng.
Không thể có rủi ro.
- Tắt sóng nhiễu đi. - Chỉ huy nói, thò tay vào túi lấy điện thoại di động. - Tôi muốn biết chắc chắn rằng Rachel nói dối. Sau đó chúng ta sẽ tìm cách cửu Delta-Hai và kết thúc điệp vụ này.
Tại Fairfax, nhân viên tổng đài ở Sở chỉ huy của NRO tỏ ra cáu kỉnh.
- Tôi đã bảo anh rồi, tôi không tìm thấy cái tên Jim Samiljan nào cả.
Đầu dây bên kia vẫn cứ khăng khăng:
- Chị tìm tất cả những cách viết khác nhau chưa? Chị đã kiểm tra tất cả các ban chưa?
Dù đã kiểm tra hết lượt, cô nhân viên tổng đài vẫn rà lại lần nữa. Vài giây sau, câu trả lời:
- Không ban nào có ai tên là Jim Samiljan cả. Tôi đã kiểm tra tất cả các cách đánh vần khác nhau.
Thật kỳ quặc, đầu dây bên kia tỏ ra rất hài lòng.
- Có nghĩa là NRO không có nhân viên nào tên là Jim Samil…
Đột nhiên, có người kêu lên, đầu dây bên kia náo động. Người gọi đến chửi rủa ầm ĩ rồi bất thần ngắt cuộc gọi.
Trong khoang máy bay trực thăng Kiowa, Delta-Một giận dữ kêu lên, tay gạt vội cần điều khiển để kích hoạt hệ thống gây nhiễu sóng. Nhưng đã quá muộn. Giữa vô số nút bấm và đồng hô đo trên bàn điều khiển, máy đo NED cho thấy một cuộc gọi trên tần số SATCOM vừa được thực hiện từ tàu Goya. Bằng cách nào nhỉ?
Hai người kia vẫn đứng nguyên trên boong cơ mà? Cuộc gọi từ tàu Goya tự kết thúc một tích tắc trước khi Delta-Một kịp gạt cần điều khiển xuống.
Trong phòng thí nghiệm của tàu Goya, một tiếng bíp vang lên từ máy fax.
ĐÃ TÌM ĐƯỢC KÊNH LIÊN LẠC… FAX ĐÃ ĐƯỢC GỬI ĐI.
121.
Nếu không giết người thì sẽ bị người giết. Rachel nhận thấy trong bản thân mình một phẩm chất bao lâu nay vẫn tiềm ẩn: Bản năng sinh tồn - khả năng chịu đựng dẻo dai trong tình huống hiểm nghèo.
- Bản fax vừa gửi đi có nội dung gì thế? - Câu hỏi vang lên trong máy bộ đàm.
Như vậy là máy fax hoạt động đúng như dự kiến, Rachel thấy nhẹ cả người.
- Các người hãy đi khỏi đây! - Cô ra lệnh, mắt nhìn thẳng lên chiếc trực thăng đang lượn trên đầu. - Thế là hết. Bí mật của các người đã bị lộ tẩy. Rachel điểm qua tất cả những tài liệu được gửi đi. Gần chục trang tài liệu và hình ảnh. Những bằng chứng không thể chối cãi về tảng thiên thạch giả mạo. - Nếu hại chúng tôi thì các người sẽ càng gặp nhiều rắc rối hơn.
Im lặng hồi lâu:
- Cô gửi bản fax đó cho ai?
Rachel chẳng dại gì trả lởi câu hỏi đó. Cô và Tolland phải kéo dài thời gian một cách tối đa. Cả hai đang đứng ngay gần cửa sập trên boong tàu, tạo thành một đường thẳng với tàu lặn Triton. Nếu những kẻ trên máy bay bắn vào họ thì tên lính đang bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy kia sẽ trở thành bia đỡ đạn.
William Pickering. Kẻ đó phỏng đoán, có vẻ đầy hi vọng.
- Cô đã gửi cho William Pickering.
Sai rồi. Rachel thầm nghĩ. Quả thật cô đã nghĩ ngay đến William Pickering, nhưng lại sợ những kẻ đang truy sát mình đã ra tay với ông trước - nếu đã làm thế thật thì chúng sẽ quyết giết cô bằng được. Trong lúc tuyệt vọng. Rachel đã gửi tài liệu đến số máy duy nhất mà cô thuộc.
Văn phòng của cha cô…
Sau khi mẹ cô qua đời, cha của Rachel đã liên tục dùng máy fax để giải quyết tất cả những vấn đề bất động sản có liên quan đến con gái thay vì trực tiếp tìm gặp Rachel, và số máy của ông đã tạo thành một vết hằn trong tâm trí của cô. Rachel đã tự nhủ lòng sẽ không bao giờ chịu ngửa tay cầu xin ông ta bất kỳ điều gì, nhưng đêm nay, Thượng nghị sĩ Sexton có đủ hai yếu tố quan trọng nhất những động cơ chính trị mạnh mẽ để công bố những tài liệu này không chút chậm trễ, và đủ thế lực để gọi điện đến Nhà Trắng nhằm yêu cầu bọn họ lệnh cho đội Delta ngừng lại ngay.
Giờ này chắc chắn cha của Rachel không có mặt trong văn phòng, nhưng văn phòng của ông những lúc thế này luôn cửa đóng then cài cẩn mật, và những tài liệu giá trị sẽ được lưu trữ trong két có khoá hẹn giờ. Giả sử những kẻ đang truy sát cô biết rõ đích đến của bản fax này thì chúng cũng không cách gì lọt qua hàng rào bảo vệ nghiêm ngặt của toà nhà Phillip A. Heart của Chính phủ mà không gây ra cảnh náo loạn ầm ỹ.
- Cô đã gửi bản fax đó cho ai? - Câu hỏi lại một lần nữa vang lên trong máy bộ đàm. - Cô vừa đặt người đó vào vòng nguy hiểm.
Rachel biết cần phải ăn nói một cách đàng hoàng rắn rỏi, dù trong lòng vô cùng sợ hãi. Cô đưa tay chỉ người lính Delta đang bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy. Máu từ đùi anh ta vẫn tiếp tục nhỏ giọt xuống mặt nước cách đó mười mét.
- Người duy nhất bị nguy hiểm lúc này chính là anh ta. Cô nói vào máy bộ đàm. - Quá muộn rồi. Các người cút đi. Tài liệu đã được gửi đi. Các người thua rồi. Cút mau, nếu không kẻ kia sẽ phải chết.
Kẻ đang đối thoại với Rachel trên máy bộ đàm phản công:
- Cô Sexton, cô chưa hiểu hết tầm quan trọng của…
- Hiểu hết à? - Rachel ngay lập tức đốp lại. - Tôi hiểu là các người đã sát hại những người vô tội! Tôi hiểu rằng các người đã dối trá về tảng thiên thạch? Tôi hiểu rằng các người sẽ không thể ém nhẹm chuyện này! Dù các người có giết hết cả nhóm chứng tôi thì cũng không thay đổi được tình hình đâu!
Im lặng hồi lâu, rồi giọng nói ấy lại vang lên.
- Thôi được, tôi sẽ xuống.
Rachel thấy toàn thân co cứng lại. Xuống ư?
- Tôi không mang theo vũ khí. - Giọng nói ấy lại vang lên lần nữa - Các vị đừng xử sự hấp tấp. Chúng ta cần phải nói chuyện một cách thẳng thắn.
Rachel chưa kịp phản ứng thì chiếc trực thăng đã đáp xuống boong tàu Goya. Cửa máy bay mở ra, và có người bước xuống.
Người đó mặc chiếc áo khoác màu đen giản dị và đeo cà vạt. Trong thoáng chốc, Rachel tưởng mình bị mất trí.
Cô đang trông thấy William Pickering.
Đứng trên boong tàu, William Pickering nhìn Rachel đầy tiếc nuối.
Ông không thể nào lường trước được cơ sự này. Chân bước lại gần cô gái, ông có thể cảm thấy rõ ràng phức hợp những cảm giác trái ngược trong lòng Rachel.
Kinh ngạc, bị phản bội, sững sờ, giận dữ.
Cũng dễ hiểu, ông thầm nghĩ. Có quá nhiều chuyện cô ấy đâu có biết.
Bỗng Pickering nhớ đến con gái mình. Không hiểu trước khi chết, Diana đã cảm thấy thế nào. Cả con bé và Rachel đều là nạn nhân của một cuộc chiến, cuộc chiến mà Pickering đã tự thề với lòng mình là sẽ không chịu chùn bước. Nhưng đôi khi cái giá phải trả thật là thảm khốc.
- Rachel. - Pickering lên tiếng. - Chúng ta có thể giải quyết chuyện này một cách ổn thoả. Có một số điều tôi cần phải giải thích với cô.
Rachel đẳy vẻ kinh hãi, dường như thậm chí còn thấy buồn nôn. Tolland chĩa thẳng nòng súng máy vào giữa ngực Pickering, mặt ông cũng đầy vẻ ngỡ ngàng.
- Lùi lại! - Tolland thét lớn.
Còn cách họ năm mét thì Pickering dừng lại và nhìn thẳng vào mắt Rachel.
- Cha cô đang nhận tiền hối lộ, Rachel ạ. Tiền của các công ty vũ trụ tư nhân, ông ấy có ý định giải thể NASA và cho phép các công ty tư nhân nhảy vào kinh doanh vũ trụ. Vì an ninh quốc gia nên tôi phải chặn tay ông ấy lại.
Sắc mặt Rachel đầy vẻ kinh hoàng.
Pickering thở dài.
- Bất chấp những sai lầm của nó, NASA phải là một cơ quan của Chính phủ. Chắc chắn là cô ấy hiểu hết những nguy cơ ấy. Tư hữu hoá có nghĩa là tạo điều kiện để nguồn chất xám siêu việt của NASA chảy sang các công ty tư nhân. Sẽ không còn các bí mật quốc gia nữa. Quân đội cũng không còn cơ hội tiếp nhận những tiến bộ khoá học nữa. Để tìm kiếm siêu lợi nhuận, các công ty tư nhân sẽ bán những sáng chế của NASA cho bất kỳ nhà thầu nào trả giá cao!
Giọng Rachel run rẩy:
- Ông lấy danh nghĩa an ninh quốc gia để giả mạo tảng thiên thạch đó ư?
- Câu chuyện đã diễn biến khác hẳn dự kiến. - Pickering phân trần. - Tôi chỉ lên kế hoạch cứu nguy cho một cơ quan nhà nước.
- Giết người không hề là một phần của phác thảo kế hoạch.
Pickering biết, giống như tất cả những mưu đồ tình báo khác, kế hoạch về tảng thiên thạch này chính là kết quả của sự sợ hãi.
Cách đây bảy năm, trong khi đang triển khai hệ thống tai nghe ngầm dưới nước của NRO tại những vùng biển thật sâu để không kẻ phá hoại nào có thể xuống được đến đó, Pickering đã cho sử dụng công nghệ mới của NASA để chế tạo một tàu ngầm siêu bền có khả năng đưa người xuống tận những vùng biển cực sâu - kể cả khu vực đáy biển Mariana Trench.
Con tàu hai người lái này được chế tạo bằng loại gốm siêu bền mới. Còn bản thiết kế chi tiết thì được đánh cắp từ máy tính của kỹ sư người Califomia tên là Graham Hawkes - một thiên tài chế tạo tàu ngầm luôn mang trong tim giấc mơ về con tàu có khả năng lặn rất sâu mà anh ta tự đặt tên là Deep Flight II. Hawkes không thể tìm được nguồn tài trợ để xây dựng nguyên mẫu cho thiết kế của mình. Nhưng Pickering thì có nguồn tài chính không bao giờ cạn.
Sau khi đã có con tàu trong tay, Pickering cử một đội xuống đáy biển để lắp đặt những tai nghe mới tại khu vực đáy biển Mariana Trench, ở những độ sâu không ai dám nghĩ tới. Tuy nhiên, trong khi khoan, họ đã tìm thấy một cấu trúc địa chất mà chưa nhà khoa học nào biết tới, bên trong cấu trúc ấy là những chrondrule và các mẫu hoá thạch của một loài vật không tên. Và bởi NRO cần phải giữ bí mật về chiếc tàu ngầm loại mới này, họ không thể chia sẻ những gì phát hiện được với bất kỳ ai.
Mãi đến gần đây, do có quá nhiều mối lo ngại, đội ngũ cố vấn khoa học của NRO mới quyết định sử dụng những kiến thức về thiên thạch thu thập được ở Mariana Trench để trợ giúp cho NASA. Biến một tảng đá lấy từ đáy biển lên thành một tảng thiên thạch hoá ra lại vô cùng đơn giản. Dùng động cơ đốt hydro ECE, họ tạo ra lớp vỏ ngoài cháy xém y như thật. Sau đó, họ cho một tàu ngầm cỡ nhỏ lặn xuống dưới phiến băng Milne và chôn tảng đá ngược từ dưới lên. Công việc hoàn tất, tảng đá nằm im trong lòng băng hà như thể nó đã nằm đó từ mấy thế kỷ nay.
Rủi thay, những phi vụ bí mật kiểu này rất hay bị phanh phui và đi đến thất bại chỉ vì vài tiểu tiết. Ngày hôm qua, toàn bộ âm mưu của họ đã đổ vỡ chỉ vì một dúm những sinh vật biển phù du…
Ngồi trên máy bay, Delta-Một lặng lẽ quan sát màn kịch đang diễn ra. Dù Tolland và Rachel có vẻ như đang hoàn toàn không chế tình hình, anh suýt nữa không nhịn được cười trước sự ngây thơ của bọn họ. Khẩu súng máy trong tay Tolland hoàn toàn vô tác dụng, từ tít xa anh đã thấy ngay là cò súng đã bị đẩy tít về phía sau, có nghĩa là không còn một viên đạn nào trong nòng súng cả.
Delta-Một nhìn người đồng đội của mình đang giãy giữa trong gọng kìm sắt của chiếc tàu ngầm mini, anh biết giờ là lúc không thể chậm trễ được nữa. Cả hai đối tượng trên boong đều đã tập trung chú ý vào William Pickering, giờ là lúc Delta-Một hành động. Vẫn để động cơ nổ đều, anh mở cánh cửa phụ bên hông máy bay, tụt xuống. Tay cầm súng máy, anh tiến về phía mũi tàu. Trước khi máy bay hạ cánh, Pickering đã ra những mệnh lệnh rất rõ ràng, và lần này Delta-Một quyết không làm hỏng việc.
Chỉ trong vòng vài phút, anh biết rõ thế, câu chuyện này sẽ kết thúc.


Điểm Dối Lừa - Chương 119

Cách con tàu Goya một trăm sáu mươi dặm, Gabrielle Ashe đang tròn mắt nhìn màn hình máy tính cá nhân của Thượng nghị sĩ Sexton, kinh ngạc đến sững sờ. Tất cả những nghi vấn của cô đều đúng sự thật.
Nhưng cô không thể ngờ lại đúng đến mức này.
Gabrielle đang xem hàng chục tờ séc ngân hàng mà Thượng nghị sĩ đã quét vào máy tính - đều từ các công ty vũ trụ tư nhân gửi vào tài khoản của Sexton tại đảo Cayman. Tờ có mệnh giá nhỏ nhất cũng trị giá tới mười lăm ngàn đô la. Có mấy khoản lên tới nửa triệu đô. Chỉ là những khoản chẳng đáng kể, nguyên văn lời ông ta là thế. Tất cả những khoản hiến tặng của họ đều duới mức hai ngàn đô la.
Hiển nhiên là ông ta đã nói dối từ bao lâu nay. Những bằng chứng về hoạt động gây quỹ tranh cử bất hợp pháp không thể tha thứ đang hiện ra sờ sờ trước mắt Gabrielle. Trái tim cô nhói lên, đau vì bị lừa dối, đau vì thất vọng. Ông ta nói dối!
Gabrielle thấy mình thật ngu ngốc, thật nhơ nhuốc. Cô như muốn phát điên.
Ngồi chết sững trong bóng tối, Gabrielle chẳng biết nên thế nào.

Điểm Dối Lừa - Chương 118

Cảm giác nhức nhối dội lên từ chân của Delta-Ba. Anh tưởng như mình đang trôi nổi, bông bềnh trong vô thức. Hay đây chính là cái chết? Anh gắng gượng cử động chân tay, nhưng không được, đến cả hít thở cũng thấy khó khăn. Hai mắt anh chỉ nhìn được những đốm đen trắng lờ mờ. Rồi tỉnh táo hơn lên, anh nhớ lại tiếng nổ trên mặt đại dương, vẻ giận dữ điên cuồng trong ánh mắt của Michael Tolland khi ông ta đứng đó, tay chĩa cây gậy bắn cá mập vào cổ họng anh.
Chắc Tolland đã giết mình…
Nhưng rồi cơn đau như xé ở chân nhắc Delta-Ba rằng anh vẫn còn sống. Và tất cả những sự kiện lần lượt hiện về trong tâm trí.
Nghe tiếng nổ trên đại dương khi chiếc thuyền máy Crestliner bị trúng tên lửa, Tolland đã gào lên đau đớn và căm hận vì mất người bạn quý. Rồi ông ta, quay sang anh, mắt quắc lên giận dữ, lưng khom xuống, như thế định ngay lập tức đâm mạnh vào yết hầu của anh; nhưng hình như đúng lúc ấy lương tâm của ông ta đã lên tiếng can ngăn. Thế là Tolland quẳng cây gậy sang một bên, mắt long lên, rồi thúc mạnh mũi ủng vào bàn chân vừa bị bắn nát của anh.
Chi tiết cuối cùng mà Delta-Ba còn nhớ được là anh đau đớn đến nỗi nôn hết mật xanh mật vàng, tối tăm mặt mũi và ngất đi.
Lúc này anh đã hồi tỉnh lại, nhưng không thể nhớ nổi mình đã bị bất tỉnh bao nhiêu lâu. Hai khuỷu tay anh bị trói giật ra đằng sau, nút dây trói xiết chặt khủng khiếp, chắc chỉ có thuỷ thủ chuyên nghiệp mới xiết chặt được đến thế. Hai cẳng chân anh cũng bị bẻ giật về phía sau, và bị buộc vào cùng với hai cổ tay, khiến cho thân người bị bẻ cong về phía sau một cách hết sức kỳ quái. Anh cố hét to lên, nhưng không âm thanh nào thoát ra khỏi cổ họng. Miệng anh đã bị nút chặt.
Delta-Ba không thể tin rằng sự thể lại đến nông nỗi này. Chợt thấy có làn gió ấm áp thổi nhẹ và những ngọn đèn sáng chói, anh nhận ra mình đang ở trên boong chính của tàu Goya. Anh vặn vẹo, nhìn quanh, hi vọng thấy đồng đội đến cứu mình, nhưng chỉ thấy một hình ảnh hãi hùng - hình ảnh méo mó và ngoặt ngoẹo của chính anh, phản chiếu trên mặt kính Plexiglas của chiếc tàu lặn mini. Chiếc tàu lặn đang lơ lửng trước mặt, và Delta-Ba thấy mình đang nằm ngay trên ngưỡng cửa giật trên boong tàu, thật nguy hiểm. Và không kém phần đáng sợ là một câu hỏi vừa hiện lên trong óc.
Mình ở trên boong…, còn Delta-Hai ở đâu?
Delta-Hai mỗi lúc một thêm lo lắng.
Dù đồng đội của anh đã trả lời là không có gì bất ổn, nhưng tiếng súng phát một anh vừa nghe thấy rõ ràng không phải ra từ súng máy. Rõ ràng là Rachel Sexton và Tolland vừa bắn. Delta-Hai đến sát bên lối lên xuống mà đồng đội của anh lúc nãy bước xuống, và trông thấy máu.
Súng lên đạn sẵn, anh xuống cầu thang, lần theo vết máu dọc một hành lang hẹp dẫn đến mũi tàu. Đến đây, vết máu anh đến cầu thang thứ hai dẫn xuống boong chính. Không thấy ai. Càng lo lắng hơn, Delta-Hai tiếp tục lần theo vết máu dọc theo boong, đến tận đuôi tàu, gặp lại chính cầu thang đầu tiên mà anh đặt chân xuống.
Cô chuyện gì thế nhỉ? Vết máu dường như tạo thành một vòng tròn lớn.
Thận trọng, vừa chĩa súng tứ phía vừa nhích từng tí một, Delta Hai tiến đến khu đặt các phòng thí nghiệm. Vệt máu kéo dài mãi đến tận boong sau. Cẩn thận đi vòng rộng ra để tránh góc ngoặt, mắt anh vẫn nhìn theo vết máu.
Rồi anh trông thấy.
Lạy Chúa lòng lành!
Delta-Ba đang nằm đó - bị trói chặt, bịt miệng - ngay trước chiếc tàu lặn mini của tàu Goya. Từ xa anh đã thấy một bên chân của Delta-Ba không còn nữa.
Sợ bị gài bẫy, Delta-Hai giương súng sẵn sàng, thận trọng tiến lên. Delta-Ba đang vùng vẫy và cố nói với anh điều gì đó. Trong cái rủi có cái may, có lẽ do chân bị trói quặt ra đằng sau mà Delta-Ba còn sống được đến lúc này, máu chảy ra từ vết thương có vẻ đã giảm nhiều.
Đến gần chiếc tàu lặn cỡ nhỏ, tầm nhìn bao quát phía sau của Delta-Hai không thể tốt hơn, vòm kính của buồng lái phản chiếu toàn bộ boong tàu. Mãi đến lúc đã đứng sát người đồng đội không may mắn của mình, Delta-Hai mới nhận ra ánh mắt đầy hàm ý của Delta-Ba, nhưng đã quá muộn.
Bỗng đâu tia chớp màu bạc bất thần loé lên.
Một trong những cánh tay máy của chiếc tàu lặn Triton chợt tung ra và túm chặt đùi trái của Delta-Hai. Anh cố giãy ra, nhưng cánh tay máy càng xiết chặt thêm, chặt đến nỗi xương bị gãy. Delta-Hai thét lên đau đớn. Anh trừng mắt nhìn vào trong cabin tàu lặn. Đằng sau những đường nét của boong tàu phản chiếu trên mặt kính là khuôn mặt xanh xao, người đó ngỗi thu mình gọn lỏn ở góc khuất trong con tàu Triton.
Michael Tolland đang ở trong tàu lặn, bên bàn điều khiển.
Quá ngu, Delta-Hai rít lên, nén đau để giương súng máy lên.
Anh nhằm thẳng vào ngực trái của ông ta, ngay sau lớp kính, chỉ cách anh không quá ba foot. Anh kéo cò, đạn nổ ầm ầm. Tức tối vì bị mắc bẫy, Delta-Hai giữ chặt cò súng cho đến khi không còn một viên đạn. Thở hắt ra, anh quẳng súng xuống đất, rồi chằm chằm nhìn mái vòm bằng kính bị thủng lỗ chỗ.
- Chết đi con! - Vừa gằn giọng rít lên, Delta-Hai vừa cố gỡ chân khỏi cánh tay máy. Những cái móc thép nghiến sâu thêm, làm da thịt rách toác ra. - Chết tiệt! - Anh quờ tay lần tìm máy bộ đàm đeo ở thắt lưng. Nhưng vừa cầm được chiếc máy thì bị một cánh tay máy nữa bật ra và xiết chặt cổ tay. Máy bộ đàm CrypTalk rơi xuống boong tàu.
Đúng lúc ấy một bóng ma hiện ra ở cửa sổ kính ngay bên cạnh anh. Khuôn mặt nhợt nhạt ban nãy đang ngó qua mép kính còn nguyên vẹn và nhìn anh chòng chọc. Choáng váng. Delta-Hai nhìn lại vòm kính của chiếc tàu lặn, hoá ra không một quả đạn nào xuyên nổi qua lớp kính dày của mái vòm trước mặt. Mặt ngoài mái vòm chi chít những vết đạn.
Sau giây lát, một cánh cửa mở ra trên nóc mái vòm kính, Michael Tolland nhô đau lên. Ông ta vẫn còn run, nhưng không hề hấn gì. Xuống đến mặt boong, ông chăm chú nhìn cửa sổ tàu ngầm thủng lỗ chỗ.
- Những mười ngàn pound một inch đấy. - Tolland lên tiếng. - Đáng ra anh bạn nên dừng loại súng lớn hơn.
Đứng trong phòng thí nghiệm của cơn tàu, Rachel biết cô không còn nhiều thời gian. Cô vừa nghe tiếng súng nổ, và thầm khẩn cầu cho mọi sự diễn ra đúng như dự kiến của Tolland. Bây giờ cô không cần biết ai là kẻ đứng sau tất cả những chuyện này - Giám đốc NASA, Marjorie Tench, hay đích thân Tổng thống - chi tiết đó không còn quan trọng nữa. Kẻ đó sẽ không thể phủi tay sau tất cả những gì đã gây ra. Dù kẻ đó có là ai thì sự thật vẫn phải bị phanh phui.
Vết thương trên cánh tay Rachel đã hết chảy máu, và một lượng lớn hoóc-môn adrenaline đang thấm đẫm từng tế bào của cô, khiến cho phản xạ nhạy bén hơn, đồng thời cảm giác đau cũng bớt đi nhiều. Tìm được giấy và bút, Rachel đã nén đau viết một bức điện hai dòng. Những ngôn từ trên giấy không được hùng hồn cho lắm, nhưng lúc này đâu phải là lúc trau chuốt câu chữ. Cô để tờ giấy ấy vào cùng một xấp với những bằng chứng khác - bức ảnh chụp cắt lớp phiến băng Milne, ảnh loài sinh vật biển Bathynomous Giganteus, bản sao những bài báo về các chrondrule hình thành trong lòng đại dương, bản in kết quả soi mẫu đá trên kính hiển vi. Tảng thiên thạch đó hoàn toàn là giả mạo, và những tài liệu này sẽ chứng minh điều ấy.
Rachel xếp tất cả những giấy tờ đó vào máy fax. Do không thuộc lòng nhiều số fax, cô không có nhiều chọn lựa, nhưng Rachel đã quyết định ai sẽ là người nhận được những thông tin này. Nín thở cô cẩn thận bấm số của người nhận.
Vừa nhấn vào nút "gửi". Rachel vừa thầm mong mình đã chọn lựa một cách sáng suốt.
Một tiếng bíp vang lên từ chiếc máy fax.
LỖI: KHÔNG CÓ TÍN HIỆU ĐƯỜNG TRUYỀN
Không có gì bất ngờ. Hệ thống liên lạc của con tàu vẫn bị nhiều. Cô kiên nhẫn quan sát chiếc máy hoạt động, hi vọng nó được cài đặt cùng một cơ chế với chiếc máy cô vẫn thường dùng ở nhà riêng.
Nhanh lên nào!
Năm phút sau, lại có một tiếng bíp nữa.
ĐANG KẾT NỐI LẠI…
Tuyệt lắm! Chiếc máy đang tự động quay lại số mà Rachel vừa bấm.
LỖI: KHÔNG CÓ TÍN HIỆU ĐƯỜNG TRUYỀN
ĐANG KẾT NỐI LẠI…
Để cho chiếc máy tiếp tục tự động đợi tín hiệu đường truyền, Rachel lao ra ngoài boong tàu, vừa kịp lúc chiếc trục thăng sầm sập quay lại.

Điểm Dối Lừa - Chương 117

Thông thường, vào giờ này thì chái Tây của Nhà Trắng thường rất tĩnh mịch, nhưng thái độ vội vã của Tổng thống cùng với bộ quần áo ngủ và đôi dép lê ở chân ông đã khiến cho các trợ lý và nhân viên đang trực phiên thấy lo lắng và bật dậy khỏi những chiếc giường gấp đặt ngay cạnh bàn làm việc và những phòng ngủ nhỏ bố trí rải rác tại đây.
- Thưa Tổng thống, không thấy bà ấy đâu cả. - Một trợ lý trẻ vừa nói vừa hối hả theo Herney vào phòng bầu dục. Anh ta đã tìm kiếm khắp nơi. - Cả điện thoại cầm tay lẫn máy nhắn tin, bà Tench đều không nghe ạ.
Tổng thống cáu gắt:
- Thế anh đã sang tìm ở…
- Bà ấy đã rời khỏi Nhà Trắng rồi ạ. - Một trợ lý khác vừa bước vào phòng đã nhanh nhảu báo cáo. - Bà ấy ra khỏi cổng cách đây một giờ. Chắc là đi sang bên trụ sở NRO rồi. Nhân viên tổng đài cho biết tối qua bà ấy đã điện đàm với Pickering.
- William Pickering à? - Tổng thống ngỡ ngàng. Tench và Pickering chưa bao giờ chịu quan hệ với nhau. - Cậu đã gọi cho ông ấy chưa?
- Cả ông ấy cũng không trả lời máy ạ. Nhân viên tổng đài của NRO cũng không gọi được ông ấy. Họ nói là máy của ông ấy thậm chí còn không đổ chuông. Như thể là ông ấy đã biến mất khỏi trái đất.
Herney tròn mắt nhìn hai người trợ lý của mình một hồi lâu, rồi đến bên quầy rượu và tự rót cho mình một ly Bourbon. Ông vừa mới đưa ly rượu lên môi thì một nhân viên mật vụ xuất hiện.
- Tôi rất không muốn đánh thức Tổng thống, nhưng vừa có vụ đặt bom gần đài tưởng niệm FDR.
- Cái gì? - Suýt nữa Herney làm rơi cái ly.
- Cách đây một giờ. - Anh ta nói giọng rầu rĩ. - Và bên FBI đã nhận dạng được nạn nhân…

Điểm Dối Lừa - Chương 116

Corky Marlinson không giữ chặt bánh lái của chiếc thuyền máy Crestliner Phantom nữa. Ông nghĩ rằng dù có giữ bánh lái hay không thì chiếc thuyền này sẽ chạy theo một đường thẳng. Theo hướng nguy hiểm nhất…
Ngồi phía đuôi con thuyền đang bị đại dương đẩy lên dằn xuống dữ dội, ông đang xem xét vết thương ở chân. Một viên đạn đã bay đúng vào phía trước xương trụ, may không phải là xương đùi. Không thấy có vết thương hở nào ở mặt sau chân phải, có nghĩa là viên đạn vẫn ở bên trong. Ông lục tìm khắp xung quanh, tìm kiếm một ít bông băng để cầm máu, nhưng chẳng thấy gì - chỉ có chân vịt, ống thở, và mấy cái áo phao cứu sinh. Không có dụng cụ sơ cứu. Luống cuống, Corky tìm thấy cái ngăn kéo bên trong có giẻ rách, băng dính. dầu nhờn, và một số dụng cụ sửa chữa khác. Nhìn cẳng chân đầy máu của mình. Corky tự hỏi không biết còn bao lâu nữa thì ông sẽ thoát ra khỏi vùng có nhiều cá mập.
Chắc còn xa lắm.
Delta Một cho chiếc Kiowa bay là là sát mặt biển để tìm chiếc thuyền Crestliner đang chạy trốn. Đoán rằng chiếc thuyền sẽ tìm cách vào đất liền và tránh con tàu Goya càng xa càng tốt, anh cho máy bay lao thẳng theo hướng lúc nãy chiếc thuyền đã xuất phát.
Lẽ ra mình phải rượt chiếc thuyền đó rồi mới phải.
Thường thì chỉ cần dùng máy quét radar là tìm thấy ngay những mục tiêu kiểu này, nhưng thiết bị gây nhiễu bằng sóng âm địa nhiệt của chiếc máy bay này có tác động trong bán kính những mấy dặm, nên cả radar của anh cũng không hoạt động được. Phải đợi đến khi tiêu diệt xong tất cả các đối tượng thì mới được tắt thiết bị gây nhiễu. Đêm nay, không một ai trên con tàu Goya được đàm thoại với người ngoài.
Bí mật về tảng thiên thạch sẽ bị chôn vùi. Tại đây. Chính vào lúc này.
Delta Một may mắn có một thiết bị khác để thay thế hệ thống radar. Anh có thễ dễ dàng phát hiện được tín hiệu nhiệt phát ra từ chiếc thuyền, ngay cả trong vùng có dòng hải lưu nóng như thế này. Anh bật máy quét. Nhiệt độ nước ở vùng biển này lên đến 95 độ F, nhưng may thay, nhiệt độ của chiếc thuyền có động cơ 250 mã lực đang chạy hết tốc độ còn cao hơn thế gấp mấy lần.
Corky Marlinson thấy chân tay mình bắt đầu tê cứng.
Không biết làm gì hơn, ông đã dùng giẻ để lau sạch máu ở ống chân rồi lấy băng dính quấn chặt xung quanh. Khi cuộn băng dính hết sạch thì toàn bộ ống chân của ông, từ đầu gối đến tận mắt cá, đã được bọc trong lớp vỏ nhựa màu bạc. Đã cầm được máu, nhưng hai tay và quần áo của ông thì vẫn bê bết toàn máu là máu.
Ngồi yên trên thuyền, Corky lấy làm lạ tại sao chiếc máy bay vẫn chưa tìm được nình. Ông quay lại đằng sau, nhìn thật kỹ, tìm những ngọn đèn trên tàu Goya và bóng chiếc máy bay đang bám đuổi sau lưng. Lạ thật. Chẳng thấy gì cả. Toàn bộ bóng đèn trên tàu Goya đều đã tắt ngấm, không lẽ ông đã đi được xa đến thễ.
Corky chợt thấy tràn trề hi vọng. Biết đâu vì trời tối nên bọn chúng không tìm được ông. Biết đâu ông về được đến đất liền!
Bất ngờ, Corky nhận thấy đường rẽ nước ở sau đuôi cơn thuyền này rất khác thường. Nước rẽ thành một đường cong nhẹ đều đặn từ sau đuôi thuyền, như thể nó đang đi theo đường vòng cung chứ không phải đường thẳng. Bối rối, ông đưa mắt nhìn theo rẽ nước sau đuôi thuyền đang tạo thành một đường tròn rất lớn trên mặt biển: Gần như ngay tức khắc, Corky trông thấy nó.
Con tàu Goya sừng sững hiện ra bên mạn trái, cách ông không đến nửa dặm. Kinh hãi, Corky nhận ra sai lầm chết người của mình. Vì bánh lái bị bỏ không, chiếc thuyền máy đã tự động đi xuôi theo dòng hải lưu chảy xiết - xoáy nước lớn bao quanh vòm nham thạch. Mình đang đi theo một đường tròn lớn!
Ông đã tự đá bóng vào lưới nhà.
Nhận ra mình vẫn luẩn quẩn trong khu vực có nhiều cá mập, ông hãi hùng nhớ lại những lời của Tolland. Thuỳ khứu giác telencephalon cực kỳ thính nhạy… Giống cá mập đầu búa có thể nhận được mùi máu từ cách xa một dặm. Corky lo lắng nhìn cẳng chân quấn băng và hai bàn tay bê bết máu của mình.
Chẳng bao lâu nữa chiếc trực thăng sẽ tìm thấy chiếc thuyền này.
Cởi bỏ bộ quan áo dính đầy máu, Corky bò về phía đuôi thuyền. Tin chắc rằng không một con cá mập nào có thế bơi nhanh bằng chiếc thuyền máy của nình, ông vớt nước bắn lên từ đường rẽ nước sau đuôi con thuyền, cẩn thận rửa thật sạch máu dính ở hai bàn tay cũng như trên khắp cơ thể.
Từng giọt máu một…
Rửa xong, ông đứng thẳng dậy, biết rằng giờ chỉ còn một động tác nữa là xong. Ông nghe nói các loài động vật dùng nước tiểu để đánh dấu lãnh thổ của chúng, và chất acide uric chính là chất bài tiết nặng mùi nhất trên cơ thể con người.
Có tác dụng mạnh hơn máu. Corky thầm hi vọng. Vừa lầm bầm ao ước giá như vừa được uống vài vại bia hồi tối, ông gác chân phải lên bảng điều khiển và cố đái vào lớp băng dính quấn xung quanh.
Ra đi nào! Corky kiên nhẫn chờ đợi. Thật không gì khổ bằng phải cố mà đái vào người trong khi bị máy bay đuổi theo sát nút.
Mãi rồi nó cũng phải ra. Corky đái ướt đẫm lớp băng quấn quanh ống chân. Ông tận dụng nhũng giọt cuối cùng còn sót lại trong bàng quang để thấm ướt miếng giẻ rồi chà xát khắp người.
Quả là dễ chịu.
Từ" trên trời đêm, một chùm tia laze xuất hiện, chiếu chếch xuống chiếc thuyền máy, trông như lưỡi thép sắc lạnh của cái máy chém khổng lồ. Chiếc máy bay xuất hiện chếch từ một bên. Rõ ràng là viên phi công cũng bị ngạc nhiên khi thấy Corky lộn trở lại bên con tàu Goya.
Mặc xong bộ quần áo phao bảo hộ, Corky nhanh nhẹn di chuyển xuống đuôi thuyền. Một đốm sáng đỏ rực xuất hiện trên chiếc thuyền vấy máu, chỉ cách chân ông khoảng mười xăng ti mét.
Đã đến lúc.
Trên boong tàu Goya, Tolland không nhìn thấy chiếc thuyền máy Crestliner Phantom 2100 bị một ánh chớp sáng loà nuốt chửng, rồi khói lửa cuộn lên ngùn ngụt.
Nhưng ông nghe thấy tiếng nổ.

Điểm Dối Lừa - Chương 115

Gabrielle Ashe đã quay trở lại phòng tắm trong khu văn phòng của Sexton và đang chuẩn bị trèo ra ngoài. Cuộc gọi của ngài Thượng nghị sĩ đã khiến cô rất lo lắng. Rõ ràng là ông ta đã tỏ ra nghi ngờ khi cô nói rằng đang ở trong văn phòng dành cho thư ký - như thế đã đoán ra là cô đang nói dối. Dù sao thì cô cũng không mở được máy tính cá nhân của ông ta, và giờ vẫn chưa biết nên làm gì tiếp.
Sexton đang đợi.
Trèo lên đến bồn rửa mặt, đang chuẩn bị đu người lên tran để ra ngoài thì cô nghe có cái gì rơi leng keng xuống sàn nhà. Quay lại, Gabrielle bực bội thấy mình vừa đá phải hai cái móc cài tay áo mà Sexton vẫn để trên thành bệ.
Phải để mọi thứ y như cũ.
Gabrielle lại trèo xuống, nhặt hai cái móc cài và để lên thành bệ y như cũ. Đang quay người định trèo lên lại thì Gabrielle dừng lại, nhìn những cái móc cài một lần nữa. Nếu là những lúc khác thì chắc chắn cô đã chẳng để ý đến nó, nhưng đêm nay những chữ viết lồng này đặc biệt thu hút sự chú ý của Gabrielle. Giống như nhiều biểu tượng chữ viết lồng khác của ông Thượng nghị sĩ háo danh, đây lại là hai chữ Sexton viết lồng xoắn xuýt lấy nhau. SS. Gabrielle nhớ lại mật khẩu máy tính đầu tiên của ông ta: SSS. Cô nghĩ đến những chữ viết bằng mực phản quang trên quyển lịch… POTUS và hình ảnh chờ có cảnh Nhà Trắng và những tấm biếu ngữ đầy lạc quan chạy khắp xung quanh màn hình.
Tổng thống Hoa Kỳ Sedgewick Sexton… Tổng thống Hoa Kỳ
Sedgewick Sexton… Tổng thống Hoa Kỳ…
Gabrielle băn khoăn ngẫm nghĩ. Chẳng lẽ ông ta quả thật chủ quan đến thế sao?
Biết rằng chỉ cần vài tích tắc là tìm ra sự thật, Gabrielle quay trở lại văn phòng, ngồi xuống ghế và gõ bảy chữ cái vào ô mật khẩu.
POTUSSS
Màn hình chờ lập tức biến mất.
Gabrielle sững sờ, không thể tin nổi.
Đừng bao giờ đành giá thấp một chính trị gia.

Điểm Dối Lừa - Chương 114

Hai bàn tay bê bết máu, Corky vẫn xiết chặt bánh lái của chiếc thuyền máy Crestliner Phantom 2100 đang lao vun vút trên mặt biển. Ông tăng ga hết cỡ, chạy với tốc độ tối đa. Chợt cảm thấy đau nhói, Corky cúi xuống nhìn, và nhận thấy máu đang tuôn xối xả từ cẳng chân bên phải. Nhà vũ trụ học ngay lập tức thấy sa sẩm mặt mày.
Tì người vào bánh lái, ông quay lại nhìn con tàu Goya, mong thấy chiếc máy bay đuổi theo mình. Nhận thấy không thể đợi được Tolland và Rachel đã bị mắc kẹt ở boong trên, ông buộc phải quyết định thật nhanh.
Chia để trị.
Corky tính toán rằng nếu ông có thể lừa cho chiếc máy bay tách xa khỏi con tàu thì Rachel và Tolland sẽ có cơ hội dùng làn sóng điện để kêu cứu. Oái oăm thay, chiếc trực thăng vẫn đang sà xuống sát bên cạnh con tàu, như thể lũ sát nhân vẫn còn đang do dự.
Lũ chó ma kia! Đuổi tao đi!
Nhưng chiếc phi cơ không đuổi theo ông. Thay vào đó, nó lượn trước mũi tàu, rồi hạ cánh xuống boong. Không. - Corky sững sờ, thế là ông đã bỏ mặc Tolland và Rachel trong lúc khó khăn nhất rồi!
Biết rằng người duy nhất có khả năng gọi cứu viện lúc này chính là mình, Corky đưa tay sờ soạng tìm núm điều khiển. Lần thấy chiếc đài phát thanh, ông bật nút điện. Chẳng thấy gì cả.
Không có đèn báo. Không có tín hiệu. Ông vặn núm cho âm lượng lên hết cỡ. Vẫn không thấy gì. Thôi mà! Tạm thời buông bánh lái ra, ông cúi xuống nhìn cho rõ, và không dám tin vào mắt mình.
Bảng điều khiển đã bị đạn bắn tơi tả, cần dò sóng bị gãy rời ra.
Dây điện đứt lung tung. Corky trợn tròn mắt, thật không thể tưởng tượng nổi.
Thật hoạ vô đơn chí…
Run rẩy. Corky cố đứng thẳng dậy, tự hỏi liệu còn có tình huống nào trên đời tồi tệ hơn thế này không. Rồi khi quay lại nhìn con tàu Goya lần thứ hai, ông lập tức nhận được câu trả lời. Hai người lính vũ trang đầy đủ vừa nhảy từ trên máy bay xuống boong tàu. Sau đó chiếc máy bay lại cất cánh, và tăng tốc nhằm thẳng con thuyền của Corky.
Corky ngồi sụp xuống. Chia để trị. Rõ ràng là chỉ có ông mới sáng suốt nghĩ đến chiến thuật khôn ngoan này.
Băng qua boong tàu, đến bên lối đi dọc lót lưới sắt, Delta-Ba nghe văng vẳng tiếng phụ nữ la hét ở bên dưới. Anh quay lại ra hiệu với Delta-Hai rằng mình sẽ xuống dưới đó. Đồng đội của anh gật đầu, ở lại để khống chế boong trên. Hai người sẽ dừng thiết bị CrypTalk để liên lạc với nhau; thiết bị gây nhiễu của Kiowa đường nhiên phải chừa lại một tần số cho chính nó.
Tay xiết chặt khẩu súng máy nòng hếch, Delta-Ba lặng lẽ tiến đến lối đi xuống boong dưới. Với sự thận trọng của một sát thủ chuyên nghiệp, anh lần từng bước một xuống, súng luôn trong tư thế sẵn sàng.
Do tầm nhìn rất hạn chế nên Delta Ba phải khom người xuống để quan sát. Bắt đầu nghe rõ những tiếng la hét. Anh tiếp tục xuống sâu hơn. Xuống được nửa cầu thang, anh bắt đầu nhìn thấy những lối đi chằng chịt đan vào nhau ở tầng boong bên dưới.
Tiếng la thét giờ đã to hơn hẳn.
Anh đã trông thấy cô ta. Đứng ngay chỗ những lối đi chằng chịt kia giao nhau, Rachel Sexton đang cúi xuống bên tay vịn, tuyệt vọng gào to:
- Michael Tolland…
Hay Tolland bị ngã xuống đó rồi? Chắc do chấn động của vụ nổ.
Nếu thế thì nhiệm vụ của Delta-Ba quả là dễ dàng. Anh chỉ cần tiến thêm vài bậc thang nữa để lấy điểm ngắm bắn. Bắn một con cá trong chậu. Anh chỉ hơi băn khoăn chút xíu vì Rachel đang đứng cạnh tủ chứa đồ, có nghĩa là cô ta có thể có vũ khí - xiên đâm cá, hoặc súng bắn cá sấu - dù cả hai thứ đó đều không thể đọ với súng máy của anh. Tin vào thế áp đảo của mình, Delta-Ba hạ súng xuống, bước thêm một bậc cầu thang nữa. Lần này thì Rachel Sexton đã nằm trong tầm ngắm. Anh giương súng lên.
Thêm một bậc nữa.
Có cái gì động đậy dưới chân anh. Thấy Michael Tolland đang cầm một thanh nhôm dài và thọc mạnh vào chân mình, anh chỉ bị bất ngờ chứ không hề sợ hãi. Dù bị mắc mưu, Delta-Ba chỉ cảm thấy buồn cười trước những nỗ lực vô ích đến mức hài hước của đối tượng.
Nhưng rồi thanh nhôm tưởng như vô hại kia bất chợt đâm thẳng lên gót chân anh.
Bàn chân phải của anh nổ tung, cảm giác bỏng rát, nhói buốt khủng khiếp chạy khắp thân thể. Anh bị mất thăng bằng, ngã nhào và lăn lông lốc xuống cầu thang. Khẩu súng máy rơi xuống bậc cầu thang sắt, rồi nảy lên, và văng xuống biển. Đau đớn, anh co người. Ôm lấy bàn chân phải, nhưng bàn chân không còn nữa.
Tolland ngay lập tức có mặt bên kẻ vừa định tấn công mình, tay vẫn xiết chặt cây gậy nhôm - thiết bị đặc dựng dài năm foot để khống chế cá mập. Cây gậy nhôm đặc biệt này được gắn thiết bị cảm ứng áp suất ở đầu, kèm theo một băng đạn mười hai viên - vũ khí tự vệ của thợ lặn khi bị cá mập tấn công. Tolland đã ngay lập tức nạp băng đạn khác vào vũ khí của mình, và giờ đang chĩa thẳng cái đầu gậy vẫn còn nóng bỏng vào yết hầu đối phương. Anh ta nằm bất động trên sàn, khuôn mặt đầy vẻ kinh ngạc, đau đớn và tức tối. Rachel chạy lại. Đáng ra cô đã lấy được khẩu súng máy, nhưng chẳng may nó đã bị văng xuống nước mất rồi.
Thiết bị bộ đàm đeo ở thắt lưng anh ta bắt đầu kêu sột soạt.
Một giọng nói như của máy tính vang lên:
- Delta-Ba đấy à? Lên đi! Tôi vừa nghe thấy tiếng súng.
Anh ta không trả lời.
Máy bộ đàm lại kêu tít tít lần nữa:
- Delta Ba, trả lời đi, anh có cần tôi yểm trợ không?
Gần như ngay lập tức, một giọng nói khác vang lên trong máy.
Vẫn là giọng nói qua máy tính xử lý, nhưng nghe rõ tiếng động cơ máy bay đang nổ ầm ầm:
- Delta-Một đây. Tôi đang đuổi theo chiếc thuyền máy. Delta-Ba, hãy trả lời đi. Anh xuống boong dưới à? Có cần yểm trợ không?
Tolland dí khẫu súng bắn cá mập vào sát cổ họng anh ta.
- Bảo gã phi công kia đừng đuổi theo chiếc thuyền nữa. Nếu nó giết bạn tao thì mày sẽ phải chết.
Nhăn nhó vì đau, người lính đưa thiết bị bộ đàm lên môi. Tay bấm nút để trả lời máy, anh ta vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt Tolland:
- Delta-Ba đây. Tôi vẫn ổn. Hãy tiêu diệt chiếc thuyền.

Điểm Dối Lừa - Chương 113

Mãi đến khi kéo cô vào nấp phía sau chiếc tàu ngầm mini Triton và nhìn thấy vệt máu trên cánh tay Rachel thì Tolland mới biết cô đã bị thương. Nhìn ánh mắt thất thần của Rachel, ông đoán ngay rằng cô chưa hề cảm thấy đau. Đặt cô yên ổn sau chiếc tàu, ông quay sang tìm Corky. Nhà vũ trụ học đang hối hả chạy băng qua boong tàu, mắt dại đi vì sợ hãi.
Phải tìm chỗ ẩn nấp. Tolland nghĩ. Bận bịu lo đối phó với những diễn biến quá nhanh, ông chẳng còn thời gian để cảm thấy sợ hãi.
Theo bản năng, Tolland đưa mắt nhìn những bậc thang dẫn lên cao. Cầu thang trơ trọi chạy thẳng lên đài quan sát bằng kính trong suốt quá trống trảỉ. Đi lên đó thì chẳng khác nào tự sát. Chỉ còn lại một hướng đi duy nhất.
Ngay lập tức, ông quay sang nhìn chiếc tàu ngầm mini Triton, thầm hi vọng biết đâu nó có thể đưa cả ba người xuống dưới nước, thoát khỏi làn đạn từ chiếc máy bay đen sì chết chóc kia.
Ngớ ngẩn. Tàu Triton chỉ đủ chỗ cho một người, và phải mất mười phút thì máy tời mới thả được con tàu đó xuống mặt đại dương. Ngoài ra, nếu ắc quy và máy nén không được sạc đủ điện thì con tàu cũng sẽ chết dí trong lòng đại dương mà thôi.
Chúng quay lại rồi! - Corky lạc giọng vì sợ hãi, đưa tay chỉ lên trời.
Không kịp ngẩng lên nhìn, Tolland chỉ tay vào vách ngăn gần đó một lối đi bằng nhôm thoai thoải dẫn xuống những boong bên dưới. Corky chẳng đợi giục đến lần thứ hai, ông ta khom người chạy băng qua chỗ boong tàu trống trơn, rồi lao vụt xuống lối đi đó. Tolland ôm chặt Rachel, kéo cô chạy theo. Cả hai vừa kịp chạy khuất thì chiếc máy bay quay lại, vãi đạn như mưa xuống boong tàu bằng gỗ.
Tolland dắt Rachel chạy theo lối đi dốc bằng lưới nhôm, xuống tít boong bên dưới. Xuống đến nơi, ông chợt thấy toàn thân Rachel co cứng lại. Tưởng cô lại bị trúng một viên đạn nữa, ông quay sang nhìn.
Trông vẻ mặt Rachel, ông biết ngay không phải là đạn. Nhìn theo ánh mắt đầy kinh hãi của cô đang hướng xuống dưới chân họ, Tolland chợt hiểu ra.
Rachel đứng như trời trồng, hai cẳng chân như hoá đá. Cô sợ hãi, trân trân nhìn cảnh tượng hãi hùng dưới chân mình.
Vì được cấu tạo theo trường phái SWATH, tàu Goya không có hầm tàu, mà được chống đỡ bằng bốn mảng bè lớn giằng vào nhau.
Đi hết lối đi dốc, họ vừa đặt chân vào lối đi rất hẹp dẫn qua một khe hở rất lớn, dưới chân họ, cách ba mươi foot, là mặt biển hung dữ. Nước vỗ ầm ầm vào những cái bè lớn, tạo nên tiếng ầm ầm đinh tai nhức óc. Đã thế, một ngọn đèn pha vẫn bật sáng, rọi những tia sáng màu xanh nhạt xuống vùng nước bên dưới. Rachel khiếp đảm thấy sáu bảy bóng đen ma quái. Những con cá mập đầu búa. Những cái thân đen sì, bóng nhẫy đang quẫy qua quẫy lại, lũ cá bơi tại chỗ, ngược dòng nước xiết.
Cô nghe thấy tiếng Tolland.
- Rachel, không sao đâu mà. Nhìn thẳng về phía trước đi. Có anh đây rồi. - Từ phía sau, ông dịu dàng kéo bàn tay Rachel đang xiết chặt lan can. Đến lúc này Rachel mới nhìn thấy dòng máu đang chảy dọc cánh tay của mình và rơi từng giọt tõm xuống mặt biển. Cô đưa mắt nhìn theo hướng đó. Dù không nhìn thấy gì, Rachel biết rằng ngay khi giọt máu chạm đến mặt nước, cả lũ cá mập hung dữ kia sẽ ngoác những hàm răng sắc nhọn của chúng và lao bổ vào.
Thuỳ khứu giác telencephalon cực nhạy…
Đánh hơi được mùi máu từ càch xa một dặm.
- Em hãy nhìn thẳng về phía trước. - Tolland nhắc lại, giọng nói thật ấm áp và mạnh mẽ. - Tôi ở ngay sau em đây rồi.
Ông xiết chặt lấy Rachel, đẩy cô về phía trước. Cô không nhìn xuống cảnh tượng kinh khủng dưới chân, cô tiến bước. Cánh quạt của chiếc trực thăng đang rít lên ầm am ngay trên đầu họ. Lảo đảo, lắc lư như người say, Corky đã chạy trước họ một quãng khá xa.
Tolland gọi ông ta:
- Chạy xuống hết thanh giằng đi, Corky!
- Chạy xuống dưới!
Lúc này thì Rachel đã hiểu họ đang chạy đi đâu. Trước mặt họ là mấy cầu thang ngoặt hình chữ chi khác cũng dẫn xuống dưới. Ở ngang tầm với mặt nước là một cái boong khá hẹp nối thêm vào đuôi tàu Goya. Mấy cầu tàu nhỏ nhô ra từ boong hẹp đó tạo thành một bến tàu mini. Có một tấm biển lớn:
KHU VỰC LẶN
Thợ lặn có thể bất ngờ nổi lên không báo trước.
Thận trọng khi lái thuyền.
Rachel hi vọng Tolland không có ý định chọn vùng nước này làm nơi trú ẩn, nhưng ngay lập tức lại lo lắng đến cháy lòng khi thấy ông dừng lại rồi mở kho chứa đồ có lưới sắt bao quanh. Bên trong chứa toàn những bộ đo lặn, ống thở, chân vịt, áo bảo hộ, và xiên đâm cá. Rachel chưa kịp nói câu gì thì ông đã chộp lấy một cây súng bắn pháo sáng.
- Đi nào.
Cả ba lại đi tiếp.
Chạy rất nhanh, Corky đã đi đến tận chỗ ngoặt và bắt đầu bước xuống một cái cầu thang.
- Tôi thấy rồi! - ông ta sung sướng hét lên, át cả tiếng nước đang chảy ầm ầm.
Thấy cái gì? Rachel tự hỏi, nhìn Corky đang chạy băng băng.
Cô chỉ nhìn thấy có mặt đại dương đầy những cá mập đang trải rộng dưới chân họ. Tolland tiếp tục hối thúc cô tiến về phía trước.
Và đột nhiên, Rachel hiểu ra vì sao Corky sung sướng đến thế. Ở tít cuối bến tàu là chiếc thuyền máy được neo gọn gàng. Corky chạy ngay về phía đó.
Rachel trợn tròn mắt. Dùng xuồng máy để chạy trốn máy bay trực thăng hay sao?
Trên đó có cái máy bán dẫn, - Tolland nói, - Nếu chiếc xuồng máy này có thể đưa chúng ta thoát khỏi vùng nhiễu sóng của máy bay thì…
Rachel không nghe được hết những lời còn lại. Những gì vừa bất thần đập vào mắt đã khiến máu cô ngừng chảy trong huyết quản.
- Quá muộn rồi. - Cô thét lên, tay run run chỉ lên cao.
Thế là hết…
Ngước nhìn lên, Tolland ngay lập tức biết là không còn kịp nữa.
Từ đầu bên kia của con tàu, chiếc máy bay đen trũi đã quay lại, sà xuống rất thấp y như một quái vật đang nhòm vào miệng hang. Ông tưởng nó định bay xuyên qua khoảng không giữa hai tầng boong để đâm vào bọn họ, nhưng không, nó lượn vòng và bắt đầu ngắm bắn.
Tolland nhìn theo hướng những cái nòng súng đang chĩa tới. Không.
Đang lúi húi bên chiếc xuồng máy để tháo dây neo, Corky ngước nhìn lên đúng lúc một tia chớp sáng loè phụt ra từ khẩu súng máy bên dưới thân máy bay. Corky bị trúng đạn loạng choạng. Ông ta vẫn lao như điên ra mép tàu, bò xuống xuồng, rồi nằm rạp xuống để tránh đạn, máu bê bết từ ngang ống chân phải trở xuống. Vẫn nằm sát xuống lòng xuồng, Corky giơ tay lên, quờ quạng rồi tìm được chìa khoá. Động cơ Mecury 250 mã lực của chiếc thuyền rú lên ầm ỹ.
Chỉ sau đó một tích tắc, một chùm tia laze xuất hiện từ mũi chiếc máy bay đang lượn lờ, nhằm thẳng vào chiếc thuyền.
Theo phản xạ bản năng, Tolland đưa thứ vũ khí duy nhất trong tay lên ngắm bắn.
Tolland kéo cò, một luồng sáng chói loà từ nòng súng phụt ra, lao thẳng đến chiếc trực thăng trên đầu. Nhưng Tolland biết ông hành động quá muộn. Đúng vào lúc quả đạn phảo sáng chạm vào cửa chắn gió của máy bay, một quả tên lửa cũng lao vụt ra từ dưới bụng nó. Cũng đúng lúc quả tên lửa rời khỏi bệ phóng, chiếc máy bay rẽ ngoặt sang một bên, rồi bay thốc lên cao để tránh viên đạn đang lao tới.
- Cẩn thận! - Tolland hét to, dắt Rachel xuống cầu thang sắt.
Quả tên lửa bị trệch hướng, không trúng vào Corky, mà bay dọc theo thân tàu Goya, rồi lao xuống thanh giằng lớn bên dưới, cách Rachel và Tolland ba mươi foot.
Một tiếng nổ khủng khiếp. Lửa và nước văng tung toé. Những mảnh kim loại nham nhở vặn xoắn bay loạn xạ rồi rơi loảng xoảng xuống cầu thang ngay trước mặt họ. Có tiếng sắt nghiến vào nhau kêu ken két đinh tai, con tàu tròng trành một hồi, rồi giữ yên ở thế cân bằng mới, hơi nghiêng về một bên.
Khi khói đã tan bớt. Tolland mới thấy một trong bốn thanh giằng lớn của con tàu đã bị hư hại nặng. Dòng hải lưu hung dữ chảy tràn qua chiếc thuyền phao, tấm phao sắt khổng lồ của con tàu Goya cổ thể bị gãy tan bất kỳ lúc nào. Cầu thang xoắn bằng sắt dẫn xuống tầng dưới đang lung lay chao đảo dữ dội.
- Đi nào! - Tolland hét lớn. - Chúng ta phải xuống dưới đó!
Nhưng không kịp nữa rồi. Có tiếng răng rắc nứt gẫy, rồi chiếc cầu thang sắt rời ra và rơi ùm xuống biển.
Trên cao, Delta-Một vật lộn với những cần và nút điều khiển của chiếc máy bay. Bị đạn pháo sáng làm loá mắt, anh đã cho máy bay lao thốc lên, khiến quả tên lửa bay lệch hướng. Vừa lầm rầm nguyền rủa, anh vừa cho máy bay sà xuống sát mũi tàu để thực thi nốt nhiệm vụ.
Tiêu diệt toàn bộ hành khách. Lệnh của chỉ huy rất rõ ràng.
- Chết tiệt! Nhìn kia! - Từ ghế sau, Delta-Hai hét lên. - Thuyền máy kìa!
Quay phắt lại, Delta-Một nhìn thấy chiếc thuyền máy bị trúng đạn lỗ chỗ vừa rời khỏi con tàu Goya và lao vút vào bóng đêm.
Anh phải quyết định ngay.

Điểm Dối Lừa - Chương 112

Trong văn phòng của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton, Gabrielle Ashe đang ngồi trong bóng tối, chán nản nhìn chiếc máy tính trước mặt.
MẬT KHẨU KHÔNG ĐÚNG - TIẾP CẬN BỊ TỪ CHỐI
Cô đã thử một số chùm ký tự khác nhau, nhưng lần nào cũng không được. Sau khi lục khắp văn phòng để tìm một ngăn kéo nào đó mà Thượng nghị sĩ bỏ quên không khoá, hay bất kỳ một manh mối nào để dò tìm, Gabrielle đành bỏ cuộc. Đang chuẩn bị ra về thì Gabrielle chợt trông thấy một cái gì đó lấp lánh trên lịch bàn của Thượng nghị sĩ. Có người đã dùng bút bóng màu xanh, đỏ, vàng để đánh dấu ngày bầu cử Tổng thống. Dĩ nhiên Thượng nghị sĩ không bao giờ làm thế. Gabrielle với lấy quyển lịch. Những chữ cái POTUS được viết bằng mực bóng đè lên con số của ngày hôm ấy!
Chắc chắn cô thư ký luôn lạc quan của Sexton đã viết những chữ này. Bên mật vụ vẫn thường dùng chữ viết tắt POTUS để chỉ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Vào ngày bầu cử, nếu mọi sự diễn ra suôn sẻ, Sexton sẽ trở thành POTUS mới…
Gabrielle để lại cuốn lịch vào chỗ cũ và đứng lên, định ra về.
Cô đột ngột dừng lại, liếc nhìn màn hình máy tính.
NHẬP MẬT KHẨU:
Cô lại nhìn cuốn lịch.
POTUS.
Gabrielle chợt tràn đầy hi vọng. Rất có thể Sexton dùng POTUS làm mật khẩu. Đơn giản, lạc quan, và liên quan đến cá nhân.
Cô gõ những ký tự ấy.
POTUS
Nín thở, Gabrielle ấn nút enter. Một tiếng bíp vang lên.
MẬT KHẨU KHÔNG ĐÚNG - TIẾP CẬN BỊ TỪ CHỐI
Gabrielle ngồi sụp xuống ghế, quyết định bỏ cuộc. Cô quay lại nhà tắm để trèo ra khỏi văn phòng. Nhưng vừa đi được vài bước thì điện thoại cầm tay của cô đổ chuông. Đang trong tâm trạng căng thẳng, Gabrielle giật nảy mình. Cô dừng phắt lại ngước lên chiếc đồng hồ Jordain lớn treo trên tường để xem giờ, tay rút điện thoại trong túi ra. Gần bốn giờ sáng. Giờ này chắc chắn chỉ có một người gọi cho cô mà thôi - Sexton. Chắc chắn Thượng nghị sĩ đang băn khoăn không hiểu cô biến đi đâu lâu như vậy. Có nên trả lời máy không nhỉ? Nếu trả lời máy thì Gabrielle sẽ phải nói dối. Nhưng nếu không trả lời thì chắc chắn Sexton sẽ nghi ngờ.
Cô nhận cuộc gọi:
- A lô?
- Gabrielle đấy à? - Sexton tỏ ra rất sốt ruột. - Sao lâu thế?
- Em bị mắc kẹt ở đài tưởng niệm FDR. - Gabrielle trả lời. - Và bây giờ đang..
Rõ ràng là cô không ở trong taxi.
- Không ạ. - Cô đáp, - Tiện thế em đã ghé qua văn phòng để lấy thêm một số tài liệu về NASA có liên quan đến dự án PODS. Nhưng vẫn chưa tìm được.
- Nhanh nhanh lên. Tôi muốn tổ chức họp báo ngay đầu giờ sáng, và phải có con số cụ thể.
- Em đến ngay đây ạ.
Đường dây đột ngột im lặng.
- Cô đang ở trong văn phòng à?
Hình như Sexton đột ngột thấy khó hiểu.
- Vâng ạ. Mười phút nữa em sẽ lên đường ngay ạ.
Đường dây lại im lặng một lúc.
- Tốt lắm. Lát nữa gặp lại nhé.
Gabrielle tắt máy, sơ suất không để ý thấy những tiếng tích tắc ba hồi một rất đặc trưng đang đều đều phát ra từ chiếc đồng hồ treo tường Jordain ngay trước mặt.

Điểm Dối Lừa - Chương 111

Trên phiến băng Milne, trời đã yên, bán sinh quyển đã yên tĩnh trở lại Nhưng Giám đốc NASA, Lawrence Ekstrom, không có ý định lên giường đi ngủ. Ông đã đi đi lại lại trong căn nhà mái vòm suốt mấy giờ đồng hồ, rồi chăm chú nhìn lỗ thủng mà tảng đá để lại trên mặt băng, rồi lại vuốt về lớp vỏ cháy xém của tảng đá.
Cuối cùng, ông đi đến quyết định.
Giờ đây, ngồi trong phòng thông tin liên lạc PSC, ông đang nhìn thẳng vào cặp mắt ngái ngủ của Tổng thống Zach Herney. Vị Tổng thống Hoa Kỳ vẫn mặc nguyên quần áo ngủ và có vẻ chẳng lấy gì làm dễ chịu. Ekstrom biết, sau khi đã biết hết sự thật thì Tổng thống sẽ không thể cảm thấy dễ chịu một chút nào hết.
Sau khi Ekstrom nói xong, Tổng thống tỏ vẻ khó chịu như thể ông đang nghĩ rằng mình quá buồn ngủ nên chưa hiểu đúng những lời vừa nghe thấy.
- Gượm đã nào. - Herney nói. - Tôi vẫn chưa hiểu ra thế nào hết. Có phải anh vừa bảo là các anh tình cờ biết được toạ độ của tảng thiên thạch do bắt được tín hiệu cấp cứu bằng làn sóng điện - rồi sau đó giả vờ là PODS đã phát hiện ra nó à?
Ekstrom không nói gì, im lặng trong bóng tối, ông cố không để cho cơn ác mộng này nhấn chìm bản thân mình.
Rõ ràng là Tổng thống không thích sự im lặng đó chút nào.
- Trước Chúa, Larry, anh hãy nói với tôi rằng tất cả những điều này đều không phải là sự thật!
Ekstrom thấy miệng đắng ngắt.
- Tảng thiên thạch đã được tìm thấy thưa Tổng thống. Đó mới là điều quan trọng nhất.
- Tôi đã bảo anh hãy nói với tôi rằng tất cả không phải là sự thật cơ mà!
Hai tai Ekstrom như ù đi. Mình cần phải cho Tổng thống biết tất cả, ông tự nhủ. Khó khăn một chút nhưng rồi mọi cái sẽ qua thôi mà.
- Thưa Tổng thống, thất bại của dự án PODS đã khiến uy tín của Tổng thống bị sa sút nghiêm trọng. Khi bắt được lời kêu cứu bằừng sóng radio có nhắc đến tảng thiên thạch trong lòng băng hà, chứng tôi cho rằng đây là cơ hội để giúp Tổng thống giành lại điểm.
Herney choáng váng:
- Bằng cách giả mạo thành công của PODS ư?
PODS sẽ nhanh chóng được khắc phục và sẽ hoạt động tốt, nhưng không kịp cho cuộc bầu cử lần này. Tổng thống đang mất điểm từng ngày, và Sexton thì không ngớt chỉ trích NASA, cho nên..
- Anh mất trí hẳn rồi, Larry?
- Cơ hội sờ sờ ngay trước mắt, thưa Tổng thống. Và tôi đã quyết định chớp lấy nó. Chúng tôi bắt được làn sóng điện do một nhà khoa học Canada phát đi sau khi phát hiện ra tảng thiên thạch. Ông ấy đã chết vì gặp bão. Không một người nào khác biệt gì về tảng thiên thạch đó. Mà PODS thì lại đang bay trong quỹ đạo. NASA đang cần một chiến thắng, chúng tôi lại sẵn có toạ độ trong tay.
- Tại sao lúc này anh lại nói với tôi tất cả những thứ đó?
- Tôi cho rằng anh nên biết sự thật.
- Anh có biết Sexton sẽ làm những gì khi phát hiện ra điều này không?
Ekstrom không muốn nghĩ đến khả năng đó.
- Ôngta sẽ lu loa với cả thế giới là Tổng thống và NASA đã lừa dối dân Mỹ. Mà anh cũng thừa biết là ông ta đúng chứ không sai đâu.
Tổng thống không nói dối, chỉ là tôi thôi. Tôi sẽ nhận tất cả về mình…
- Larry, anh quên mất một điều quan trọng! Tôi quyết tiến hành tranh cử một cách trung thực và tích cực! Chả ra cái gì cả! Tối qua thật sạch sẽ. Vẻ vang. Thế mà bây giờ anh cho tôi biết là tôi vừa nói dối cả thế giới!
- Chỉ một chi tiết nhỏ thôi, thưa Tổng thống.
- Vẫn là nói dối cả thôi! Larry ạ. - Herney nóng nảy nói.
Ekstrom cảm thấy căn phòng chợt ngột ngạt và tù tứng vô cùng.
Còn rất nhiều điều ông muốn báo cáo với Tổng thống, nhưng có lẽ phải đợi đến sáng mai.
- Xin lỗi đã đánh thức Tổng thống dậy. Tôi chỉ nghĩ là nên nói hết sự thật với anh.
Ở phía bên kia thành phố, Sedgewich Sexton nhấp một tợp rượu cô nhắc nữa và cáu kỉnh đi đi lại lại trong phòng.
Gabrielle đi đâu rồi không biết!

Điểm Dối Lừa - Chương 110

Hoàn toàn bất ngờ, họ bị tấn công. Từ phía tây nam con tàu, bóng ma đen trùi trũi đầy chết chóc của chiếc trực thăng hiện ra. Rachel không thể hiểu nổi nó là cái gì, và vì sao lại có mặt ở nơi này.
Trong bóng tối bao trùm, một loạt đạn xả từ mũi máy bay xuống, lia khắp từ mũi tới tận đuôi tàu. Không kịp tìm chỗ trú ẩn ngay. Rachel bị một quả đạn sượt qua cánh tay. Cô ngã dúi xuống sàn gỗ, rồi co người, lết đến nấp sau chiếc tàu ngầm Triton có mái vòm bằng kính.
Tiếng cánh quạt kêu rú lên inh tai khi chiếc máy bay trực thăng lao vụt qua thân tàu, sau đó đột ngột im hẳn đi khi nó lao ra biển để chuẩn bị lộn trở lại lần thứ hai.
Run rẩy, nằm sau chiếc tàu ngầm mini, Rachel vừa ôm cánh tay vừa quay lại nhìn Tolland và Corky. Cả hai đã kịp nấp sau kho chứa đồ, giờ vừa mới đứng dậy, đang hoảng hốt quan sát bầu trời Rachel đứng dậy. Quang cảnh quanh cô giờ y như một bộ phim vừa bất ngờ chuyển sang chế độ chiếu chậm.
Lom khom sau mái vòm trong suốt của chiếc tàu ngầm nhỏ, Rachel quan sát phương tiện thoát thân duy nhất của cả nhóm - chiếc trực thăng cứu hộ bờ biển. Xavia đã leo được lên đến cabin máy bay, và đang rối rít vẫy họ lên. Rachel thấy rõ viên phi công đang lom khom trong buồng lái, ấn nút, gạt cần, vặn núm. Cánh quạt máy bay bắt đầu quay…, chậm chưa từng thấy.
Quá chậm.
Nhanh lên!
Rachel giờ đã đứng thẳng dậy và chuẩn bị chạy. Cô băn khoăn không biết mình có kịp băng qua boong tàu trước khi chiếc máy bay đen kia quay lại lần nữa không. Cô nghe tiếng chân của Tolland và Corky đang chạy về phía mình, về phía chiếc trực thăng đang đợi sẵn. Phải rồi. Nhanh lên!
Roi cô trông thấy…
Cách họ khoảng một trăm mét, từ trên trời cao, một chùm tia laze sáng đỏ nhỏ bằng cây bút chì xuất hiện giữa bóng đêm mịt mùng. Chùm tia ấy quét dọc thân tàu. Rồi tìm thấy mục tiêu nó dừng lại ở sườn chiếc máy bay phản lực cứu hộ bờ biển đang đợi họ.
Chỉ trong hc tắc, Rachel hiểu ngay mình vừa nhìn thấy gì.
Trong giây phút ấy, tất cả những gì đang diễn ra trên boong tàu Goya dường như hoà thành một mớ hỗn loạn những âm thanh và hình ảnh. Tolland và Corky đang cố sức lao thật nhanh về phía cô Xavia ra sức vẫy họ lên máy bay - chùm tia sáng màu đỏ rực xuyên thủng màn đêm.
Quá muộn mất rồi.
Rachel lao như tên bắn về phía hai người đàn ông đang ra sức chạy thật nhanh về phía chiếc phi cơ. Cô chặn đường họ, dang hai tay thật rộng để ngăn cả hai lại. Cả ba người lao vào nhau đánh sầm, cùng ngã nhào như một toa tàu vừa trệch khỏi đường ray, mằm chồng chất lên nhau.
Phía xa, một luồng sáng trắng cực mạnh loé lên. Rachel kinh hãi rụng rời thấy luồng khí xả phụt ra theo đúng đường thắng mà chùm tia laze kia vừa vạch sẵn về phía chiếc máy bay đang đậu trên boong tàu.
Khi quả tên lửa Hellfire lao đúng vào thùng chứa nhiên liệu của nó, chiếc trực thăng nổ tung thành từng mảnh, y như một món đồ chơi. Luồng hơi nóng và tiếng động tràn khắp boong tàu, vỏ đạn rơi như mưa. Chiếc máy bay ngùn ngụt lửa lắc lư trên cái đuôi đã vỡ tan tròng trành trong giây lát rồi nhào khỏi boong tàu rơi đánh ầm xuống biển, cả một đám mây lớn những hơi nước vụt bay lên.
Rachel nhắm mắt lại, cảm thấy hụt hơi. Cô nghe rõ mồn một tiếng xèo xèo, ùng ục khi chiếc máy bay đang rừng rực lửa chìm xuống nước, rồi bị dòng hải lưu chảy xiết cuốn đi. Trong tất cả những hỗn độn ấy, cô nghe tiếng Michael Tolland đang la hét. Cánh tay rắn chắc của ông vừa túm lấy vai cô, kéo Rachel đứng dậy. Nhưng Rachel không thể cử động.
Người phi công cứu hộ bờ biển và Xavia đã chết.
Tiếp đến sẽ là chúng ta.

Điểm Dối Lừa - Chương 109

Dò từng bước trong văn phòng tối sẫm của Thượng nghị sĩ Sexton, tim Gabrielle đập thình thịch. Căn phòng thật rộng rãi và sang trọng tường ốp gỗ, những bức tranh sơn dầu, những tấm thảm Ba Tư, những chiếc ghế bọc da, và chiếc bàn gỗ gụ bóng lộn.
Nguồn sáng duy nhất trong căn phòng là những tia sáng màu tím sẫm toả ra từ màn hình máy tính của Sexton.
Gabrielle đến bên bàn làm việc.
Thượng nghị sĩ Sexton say sưa mô hình "văn phòng số hoá" đến mức điên khùng. Ông luôn tránh những chồng hồ sơ dày cộp, và ưa thích sự gọn gàng, tiện dụng của chiếc máy tính cá nhân. Trong chiếc máy tính này là vô vàn thông tin - biên bản các cuộc họp, những tài liệu đã được đưa vào máy quét, những bài phát biểu, những ghi chú cá nhân… Máy tính của Thượng nghị sĩ Sexton chính là mảnh đất thiêng của riêng ông, và vì thế lúc nào ông cũng khoá cửa văn phòng rất cẩn thận để bảo vệ chiếc máy tính này. Thậm chí ông còn từ chối sử dụng intemet vì sợ tin tặc đột nhập vào chiếc máy thiêng liêng của mình.
Chỉ cần cách đây một năm thôi, Gabrielle sẽ nhất định không chịu tin rằng các chính trị gia lại ngu si đến mức lưu trữ tất cả những tài liệu có thể bị sử dụng để buộc tội họ, nhưng Washington đã dạy cô rất nhiều điều. Thông tin chính là quyền lực. Gabrielle đã rất kinh ngạc khi biết rằng tất cả những chính trị gia nhận tiền hiến tặng bất hợp pháp đều giữ lại những tài liệu làm bằng chứng cho các khoản tiền ấy - thư từ, hoá đơn ngân hàng, biên lai… - thảy đều được cất ở nơi kín đáo và an toàn. Chiến thuật chống tống tiền này có tên tục là "bảo hiểm kiểu anh em sinh đôi người Xiêm"; nó có tác dụng bảo vệ chính trị gia trước những người có ý nghĩ rằng những khoản tiền hiến tặng hào phóng của họ là vật bảo đảm cho những áp lực mà họ có quyền tạo ra đối với các chính trị gia. Nếu bị ép quá, chính trị gia chỉ cần lôi bằng chứng ra để cho đối tác biết rằng cả hai bên đều vi phạm luật pháp. Bằng chứng ấy sẽ khiến cho cả chính trị gia lẫn đối tác của mình bị dính chặt vào nhau từ ngang hông trở lên - như hai anh em sinh đôi dính nhau người Xiêm La nọ trong tiêu thuyết của Mark Twain.
Gabrielle ngồi xuống bên bàn làm việc của ngài Thượng nghị sĩ. Cô nhìn chiếc máy, hít thật sâu. Nếu Thượng nghị sĩ nhận tiền của SFF, tất cả bằng chứng sẽ nằm hết trong chiếc máy tính này…
Ảnh chờ trên máy tính của Thượng nghị sĩ là cảnh Nhà Trắng và mặt tiền của nó do một nhân viên vốn luôn lạc quan của ông thiết kế cho ông. Xung quanh bức ảnh là tấm biểu ngữ rất dài với dòng chữ:
- Tổng thống Hoa Kỳ Sedgewick Sexton… Tổng thống Hoa Kỳ Sedgewick Sexton…, Tổng thống Hoa…
Gabrielle chạm nhẹ tay vào con chuột, một hàng chữ hiện lên.
HÃY NHẬP MẬT KHẨU:
Gabrielle không hề thấy bất ngờ. Chẳng có gì khó khăn. Tuần trước, cô bước vào phòng đúng lúc Thượng nghị sĩ vừa ngồi xuống và đang nhập mật khẩu vào máy. Cô thấy ông bấm rất nhanh ba ký tự.
- Thế mà cũng đòi là mật khẩu sao, thưa Thượng nghị sĩ? - Cô vừa bước vào vừa nói.
Sexton ngước lên.
- Gì cơ?
- Thế mà ai cũng tưởng Thượng nghị sĩ rất quan tâm đến vấn đề bảo mật cơ đấy. - Cô mắng yêu. - Mật khẩu gì mà chỉ có mỗi ba ký tự. Các chuyên gia máy tính vẫn khuyến cáo mọi người phải dùng ít nhất sáu ký tự cơ.
- Chuyên gia máy tính rặt một lũ trẻ ranh. Làm sao mấy anh chàng đó hiểu được rằng đã qua tuổi bốn mươi thì chẳng ai nhớ được sáu ký tự ngẫu nhiên cả. Cửa phòng này đã có hệ thống báo động rồi. Chẳng ai vào được đây.
Gabrielle tươi cười đến bên ông:
- Thế nhỡ có người lẻn vào lúc Thượng nghị sĩ đang ở nhà vệ sinh thì sao?
- Phải mò tất cả các ký tự đã. - Ông cười lớn. - Tôi thường ở trong đó lâu, nhưng không lâu đến mức ấy đâu.
- Cá một bữa tối ở nhà hàng Davide là em có thể lần ra mật khẩu của ông trong vòng mười giây.
Sexton trở nên tò mò đầy thú vị:
- Cô không đủ tiền trả cho nhà hàng Davide đâu, Gabrielle ạ.
- Tức là ông sợ không dám cá chứ gì ạ?
Sexton nhận lời gần như không giấu nổi vẻ thương hại đối yới Gabrielle. Mười giây à? - Ông thoát ra khỏi chương trình đang chạy và ra hiệu bảo Gabrielle ngồi xuống ghế. - Cô nên biết là mỗi khi đến Davide tôi chỉ gọi mỗi món saltimbocca thôi đấy. Và món ấy không rẻ chút nào đâu.
Gabrielle ngồi xuống, nhún vai nói:
- Ông sẽ phải tự trả tiền thôi mà
NHẬP MẬT KHẨU:
- Mười giây. - Sexton nhắc lại.
Gabrielle không nhịn được cười. Cô chỉ cần không quá hai giây. Từ tận ngoài cửa đã thấy là ông gõ ba ký tự rất nhanh bằng ngón tay trỏ. Rõ ràng là cùng một nút ký tự. Chàng khôn ngoan chút nào, cô cũng đã thấy là tay ông hướng về phía bên trái bàn phím - có nghĩa là chỉ còn lại khoảng chín mười phím ký tự mà thôi.
Và việc chọn ký tự cũng chẳng có gì khó khăn - Thượng nghị sĩ vốn rất ưa thích điệp âm Sexton trong cái tên của mình. Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton.
Ông bao giờ đánh giá thấp một chính trị gia.
Cô gõ ba chữ SSS, và màn hình chờ biến mất.
Sexton há hốc miệng..
Đó là chuyện từ tuần trước. Lúc này Gabrielle lại đang ngồi trước máy tính, cô tin rằng Thượng nghị sĩ chưa có thời gian để thay mật khẩu khác. Cần gì phải thế? Ông ấy hoàn toàn tin tưởng ở mình cơ mà.
Cô gõ ba chữ SSS
MẬT KHẨU KHÔNG CHÍNH XÁC - TIẾP CẬN BỊ TỪ CHỐI
Gabrielle sững sờ.
Rõ ràng là cô đã đánh giá quá mức sự tin tưởng của Thượng nghị sĩ đối với mình.

Điểm Dối Lừa - Chương 108

Corky và Xavia đang chăm chú nhìn vào kính hiển vi điện tử để xác định tỉ lệ zirconium trong các chrondrule, Rachel theo Tolland sang phòng thí nghiệm nhỏ bên cạnh. Ông khởi động máy tính trong phòng. Rõ ràng là nhà hải dương học nổi tiếng muốn kiểm tra thêm chi tiết nào đó.
Trong khi đợi máy tính chuẩn bị làm việc, ông quay sang Rachel, ngập ngùng, như muốn nói điều gì, nhưng lại lặng im.
- Có chuyện gì vậy? - Rachel hỏi. Cô thầm ngạc nhiên cảm nhận được sức hút lan toả từ cơ thể cường tráng của ông, ngay trong những giây phút gấp gáp như lúc này. ước gì Rachel có thể quên hết tất cả mọi sự, để được ở bên Mike - dù chỉ trong giây lát.
- Tôi nợ em một lời xin lỗi. - óng nói, ánh mắt đầy vẻ nuối tiếc.
- Vì sao?
- Về con tàu… Về cá mập đầu búa. Tôi quá sung sướng được quay về tàu. Đôi khi tôi quên mất là có những người rất sợ hãi khi phải đối mặt với biển cả.
Mặt giáp mặt Tolland, Rachel tưởng như mình trở lại thời còn là nữ sinh ngây thơ lần đầu hẹn hò với bạn trai.
- Cảm ơn anh. Không sao đâu mà. Thật đấy.
Dường như ông rất muốn được hôn cô. Rồi ông ngượng ngùng quay đi.
- Tôi biết em rất nóng lòng được lên bờ ngay. Chúng ta vào việc nhé.
- Vào việc thôi! - Rachel mỉm cười, nói khẽ.
- Ừ! - Tolland ngồi vào trước máy tính.
Rachel đứng sát sau lưng Tolland, tận hưởng sự yên tĩnh và ấm cúng của căn phòng nhỏ. Cô nhìn Tolland di chuyển con chuột qua một dãy file. - Chúng ta làm gì bây giờ?
Mở cơ sở dữ liệu để tìm con chấy đại dương khổng lồ Biết đâu chúng ta lại tìm được hoá thạch nào đó giống như trong tảng thiên thạch của NASA - Ông kích chuột vào chương trình tìm kiếm và gõ mấy chữ in hoa: PROJECT DIVERSITAS…
Vừa di con chuột dọc thanh công cụ, ông vừa giảng giải:
- Diversitas là cơ sở dữ liệu liên tục được cập nhật về các loại sinh vật trong đại dương. Mỗi khi nhà hải dương học nào đó phát hiện được một loài mới, anh ta có thể báo cho các đồng nghiệp khác biệt bằng cách tải thông tin và ảnh của loài vật đó lên cơ sở dữ liệu trung tâm. Vì sau mỗi tuần lại có rất nhiều thông tin mới nên đây là cách duy nhất để khỏi bị lạc hậu.
Rachel nhìn Tolland bấm nút trên thanh công cụ.
- Và bây giờ chúng ta nối mạng intemet à?
- Không. Ở biển rất khó nối mạng intemet. Chúng tôi lưu giữ tất cả các dữ liệu cần thiết trong một loạt ổ đĩa hình ở phòng bên.
Mỗi khi cập cảng thì chúng tôi lại cập nhật thông tin từ máy chủ để nhận các dữ liệu mới. Đây là cách tiếp cận dữ liệu không cần đường truyền, và thông tin của chúng tôi không bao giờ bị lạc hậu quá một tháng. - Tolland vừa cười vừa gõ từ khoá vào ô tìm kiếm trên máy tính. - Chắc Rachel đã từng nghe nói tới phần mềm nghe nhạc mở tên là Napster?
Rachel gật đầu.
Diversita được coi là phiên bản dành cho các nhà hải dương học của Napster. Chúng tôi đặt cho nó biết hiệu là LOBSTER(1) - Cơ sở dữ liệu vô cùng lập dị của các nhà hải dương học cô đơn.
Rachel cười phá lên. Khiếu hài hước của Tolland đã đánh bạt được cảm giác lo lắng của cô trong những giờ phút căng thẳng như thế này. Rachel chợt nhận thấy cuộc sống của cô gần đây quá thiếu vắng tiếng cười.
- Đây là cơ sở dữ liệu khổng lồ. - Tolland vừa nói vừa đánh những từ khoá cuối cùng vào ô tìm kiếm. - Hơn mười terabyte thông tin và hình ảnh. Nó chứa những thông tin không ai biết đến, và sẽ chẳng có ai buồn quan tâm đến. Đơn giản là các loài thuỷ sinh vật quá đa dạng. - Ông nhấn chuột vào nút "tìm kiếm". - Rồi, để xem đã có ai thấy hoá thạch nào gần giống với mẫu hoá thạch trong tảng đá của NASA không nào.
Vài giây sau, màn hình chuyển, một danh sách có bốn mục hoá thạch hiện lên. Tolland lần lượt kích chuột vào từng mẫu hoá thạch và xem xét. Không mẫu hoá thạch nào có bất cứ nét nào tương đồng với con chấy hoá thạch khổng lồ trong tảng thiên thạch trên phiến băng Milne.
Tolland nhíu mày.
- Thử cách khác xem nào. - Ông xoá bỏ từ hoá thạch trong chuỗi từ khoá rồi nhấn vào nút "tìm kiếm".
Chúng ta tìm các sinh vật đang sống vậy. Biết đâu mợt loài đang sống nào đó có những đặc điểm gần giống hoá thạch trong tảng đá của NASA.
Màn hình lại chuyển lần nữa.
Tolland lại nhíu mày. Lần này hàng trăm đề mục hiện lên trên màn hình. Ông ngồi im lặng giây lát, tay gãi gãi cái cằm lởm chởm râu. - Nhiều quá, phải giới hạn bớt lại xem.
Rachel quan sát Tolland kích vào một thanh công cụ nằm dọc có tên là "môi trường sống". Số lượng đề mục để chọn quả là khổng lồ: Vùng thuỷ triều, đầm, phá, vùng có đá ngầm, núi ngầm trong lòng đại dương, vùng có mạch phun sulfur. Tolland di chuột xuống tít bên dưới và chọn dề mục NHỮNG KHE SÂU ÍT SỰ SỐNG, VỰC SÂU ĐẠI DƯƠNG.
Rất sáng suốt, Rachel thầm nhận xét. Tolland đang giới hạn phạm vi tìm kiếm vào những khu vực mà họ cho rằng có thể hình thành các chrondrule.
Màn hình chuyển. Lần này Tolland mỉm cười hài lòng.
- Tốt lắm, chỉ còn ba đề mục.
Rachel nhìn cái tên đầu tiên trên màn hình Limulus poly… lạ hoắc.
Tolland nhấn chuột vào đó. Một bức ảnh hiện ra. Con vật này trông giống loài của móng ngựa khổng lồ nhưng không có đuôi.
- Không phải. - Tolland nói, rồi quay về trang trước.
Rachel nhìn cái tên thứ hai trên danh sách. Tômus Machêus Quỷhờnus. Thật khó hiểu.
- Đây có phải là tên thật không?
Tolland cười phá lên.
- Không đâu. Đây là một loài mới và chưa được phân loại. Anh chàng nào phát hiện ra nó quả là có óc hài hước. Anh ta đề nghị cho con vật này cái tên chính thức là Tômus Machêus Quỷhờnus - Ông nhấn chuột vào đề mục, hiện ra hình ảnh một chú tôm xấu xí có râu và những cái ăng ten phát sáng.
- Cái tên quả là thích hợp, - Tolland nhận xét - nhưng không giống con bọ vũ trụ mà chúng ta đang tìm. - Ông quay lại trang đầu.
- Cơ hội cuối cùng của chúng ta là… - Ông kích chuột vào cái tên thứ ba, và trang tài liệu được mở ra.
- Bathynomous giganteus… - Tolland đọc to cái tên của nó, khi từng dòng chữ lần lượt hiện lên. Một bức ảnh được tải xuống. Ảnh màu, chụp cận cảnh.
Rachel nhảy dựng lên. - Lạy Chúa tôi! - Con vật như đang nhìn thẳng vào cô, khiến Rachel thấy ớn lạnh.
Tolland hít một hơi thật dài:
- Trời đất ơi, anh chàng này trông giống quá chừag.
Rachel gật đầu, không thốt nên lời. Bathynomous giganteus.
Giống y chang một con chấy biết bơi khổng lồ. Rất giống mẫu hoá thạch trong tảng thiên thạch của NASA.
Có vài khác biệt không đáng kể - Tolland nói, ông di chuột qua một vài tiêu bản giải phẫu học và bảng số liệu. - Giống nhau kinh khủng, đặc biệt là nếu nghĩ rằng loài vật này đã tiến hoá qua một trăm chín mươi triệu năm.
Giống lắm, Rachel thầm nghĩ, quá giống.
Tolland đọc to những miêu tả hiện trên màn hình:
- Được cho là một trong những loài cổ xưa nhất trong đại dương. Đây là một loài hiếm gặp và mới được xếp loại. Bathynomous giganteus là một loài đẳng tức ăn xác thối hiếm gặp ở đại đường. Có chiều dài tới hơn nửa mét, loài này có lớp vỏ kitin che phủ khắp đầu, ức, và bụng. Chúng có hai phần phụ, ăng ten, và mắt hỗn hợp giống các loài côn trùng trên mặt đất. Loài sinh vật đáy biển này không bị bất kỳ loài nào khác ăn thịt và sống ở những vùng có môi trường cằn cỗi mà cho đến gần đây chúng ta vẫn tưởng là không có sự sống. - Tolland ngước mắt lên. - Chi tiết này giải thích vì sao trong tảng đá đó không có bất kỳ mẫu hoá thạch nào khác!
Rachel chăm chăm nhìn con bọ trên màn hình, vừa phấn chấn, vừa không biết nên hiểu tất cả mọi sự như thế nào cho phải.
- Thử tưởng tượng xem. - Tolland hào hứng nói - Cách đây một trăm chín mươi triệu năm, một ổ Bathunomous bị chôn sâu trong một túi bùn dưới đáy đại dương. Và khi túi bùn ấy bị thạch hoá, những con bọ này trở thành hoá thạch! Trong suốt thời gian đó, đáy đại dương luôn luôn biến đổi do các đĩa kiến tạo di chuyển. Vì vậy, tảng đá này bị chuyển đến một vùng có áp suất cực lớn, và các chrondrule hình thành! - Những lời nói của Tolland mỗi lúc một gấp gáp. - Và nếu một phần của tảng đá ấy vỡ ra, - rồi trôi dạt đến một khe sâu không quá khó tiếp cận dưới đáy đại dương, nó sẽ được phát hiện!
- Nhưng nếu NASA… - Rachel lắp bắp. - ý em là nếu đây là một sự lừa dối, NASA phải biết là sớm muộn gì cũng sẽ có người tình cờ phát hiện ra sự giống nhau giữa các hoá thạch và loài sinh vật đại dương này, đúng thế không nào? Y như cách chúng ta vừa tìm ra đấy.
Tolland bắt đầu in bức ảnh chụp Bathynomous.
- Chẳng biết nữa. Nếu có người vô tình phát hiện ra những điểm giống nhau giữa những mẫu hoá thạch và loài chấy biển này đi nữa thì đặc điểm sinh học của chúng cũng không hoàn toàn giống nhau. Điều đó càng có lợi cho NASA.
Rachel chợt hiểu ra.
- Thuyết tha sinh. Cuộc sống trên Trái đất bắt nguồn từ trong vũ trụ.
- Chính xác. Những nét tương đồng giữa một sinh vật của trái đất vả một sinh vật từ vũ trụ sẽ mang ý nghĩa khoa học rất lớn. Loài chấy biển này sẽ càng có lợi cho NASA.
- Trừ trường hợp người ta nghi ngờ về tính xác thực của tảng thiên thạch.
Tolland gật đầu.
- Một khi đặt vấn đề nghi ngờ về tảng thiên thạch thì mọi chi tiết sẽ sụp đổ hết. Loài chấy biển này sẽ không còn là phao cứu hộ của NASA nữa, nó sẽ thành một cái thòng lọng.
Rachel đứng im trong khi bức ảnh của loài Bathunomous từ trong máy in từ từ chạy ra. Cô cố thuyết phục mình rằng đây chỉ là một sai sót trung thực của NASA mà thôi, nhưng thâm tâm cô vẫn quả quyết rằng không phải vậy. Những người mắc phải sai lầm một cách trung thực không bao giờ ra tay giết người.
Đột nhiên nghe thấy giọng nói léo nhéo của Corky từ phòng thí nghiệm bên cạnh.
- Không thể nào!
Cả Tolland lẫn Rachel cùng lúc đều quay sang…
- Đo lại cái tỉ lệ chết tiệt này lần nữa đi! Không thể có chuyện đó!
Xavia hối hả bước ra khỏi phòng, tay cầm tờ giấy vừa rút ra từ máy in, mặt tái mét.
- Mike này, tôi cũng không biết phải nói thế nào nữa… - Xavia lạc giọng:
- Tỉ lệ titan, zirconium mà chúng tôi đo được ở mẫu đá này… - cô hắng giọng - chắc chắn là NASA đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Đây chỉ là tảng đá có xuất xứ từ đại dương thôi.
Tolland và Rachel nhìn nhau, không ai nói được câu gì. Họ biết. Bao nhiêu hồ nghi, ngờ vực lúc này đều đã được chứng minh rõ ràng.
Tolland gật đầu, ánh mắt buồn bã.
- Vâng, cảm ơn cô, Xavia.
- Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả. - Xavia nói. - Còn lớp vỏ bị cháy xém, còn vị trí của nó trong lòng băng hà…
- Trên đường vào đất liền chúng tôi sẽ giải thích. - Tolland nói.
Đi thôi Rachel nhanh chóng vơ lấy tất cả những gì có thể dùng làm bằng chứng. Những bằng chứng này vô cùng hiển nhiên: ảnh chụp cắt lớp vết khoan bên dưới phiến băng Milne, ảnh chụp một loài sinh vật biển rất giống hoá thạch trong tảng đá, bài báo về sự hình thành các chrondrule trong môi trường đại dương của tiến sĩ Pollock, và kết quả quan sát trên kính hiển vi điện tử cho thấy tỉ lệ ti tan, zirconium.
Không thể có kết luận nào khác. Lừa dối…
Tolland nhìn tập giấy trong tay Rachel và thở dài buồn bã - Lần này thì William Pickering có bằng chứng rồi.
Rachel gật đầu, lại một lần nữa băn khoăn vì sao Giám đốc của cô không trả lời máy.
Tolland nhấc máy điện thoại đặt trong phòng, chìa cho Rachel.
- Hay thử gọi cho ông ấy lần nữa?
- Thôi chúng ta lên đường ngay đi. Chúng ta gọi từ trên máy bay cũng được.
Rachel đã quyết định sẽ bay thẳng về NRO nếu cô không thể gọi cho Giám đốc từ trên máy bay cứu hộ bờ biển. NRO chỉ cách họ có 180 dặm.
Tolland đang định gác máy, bỗng dừng phắt lại. Ông nhíu mày, áp sát ống nghe vào tai, vẻ ngạc nhiên.
- Kỳ quặc. Không thấy có tín hiệu gì cả.
Anh nói cái gì cơ? - Rachel lo lắng, hỏi.
Lạ thật. - Tolland nói. - Sóng liên lạc trực tiếp COMSAT có bao giờ bị mất thế này đâu.
- Anh Tolland ơi! - Người phi công lao xong xộc vào phòng thí nghiệm, mặt tái xám.
Có chuyện gì thế? - Rachel hỏi. - Có người đến đây à?
- Chắc là thế. - Anh ta trả lời. Tôi chả hiểu gì cả. Đột nhiên toàn bộ hệ thống radar bị mất tín hiệu.
Rachel nhét mớ giấy thật sâu vào trong áo khoác.
- Lên máy bay! Chúng ta phải đi ngay. NGAY LẬP TỨC.
Chú thích:
(1) LOBSTER - Lonely Oceanic Biologist Sharing Totally Eccentric Research.

Điểm Dối Lừa - Chương 107

Cách con tàu Goya ba mươi dặm, chiếc trực thăng chiến đấu Kiowa màu đen đang bay sát những cánh rừng thông ở miễn bắc Delaware. Delta-Một kiểm tra lại toạ độ mà họ vừa nhập vào hệ thống định vị.
Dù thiết bị liên lạc vô tuyến ở trên tàu mà Rachel sử dụng cũng như điện thoại cầm tay của Pickering đều sử dụng chế độ mã hoá để chống bị nghe lén, nội dung của cuộc điện thoại không phải cái mà Đội Delta quan tâm khi họ bắt được cuộc gọi của Rachel từ ngoài biển. Mục tiêu của họ là dò tìm vị trí của đối tượng. Nhờ có hệ thống định vị toàn cầu và hệ thống máy tính trên mặt đất, việc xác định toạ độ của một cuộc điện đàm đã trở lên dễ dàng hơn nhiều so với việc nghe lén nội dung của những cuộc gọi ấy.
Delta-Một luôn cảm thay thú vị về điều này. Hầu hết những người sử dụng điện thoại cầm tay đều không hề hay biết rằng mỗi khi họ bấm số để liên lạc với bất kỳ ai, Chính phủ có thể xác định vị trí của họ với sai số không đến mười foot, bất kể nơi nào trên trái đất - tiện ích này bị cấm quảng cáo. Đêm nay, đội Delta đã dò được tần số của một cú điện thoại gọi đến máy cầm tay của William Pickering, họ dễ dàng lần ra toạ độ của người gọi.
Lúc này, họ chỉ còn cách con mồi chưa đầu hai mươi dặm.
- Chuẩn bị chiến thuật hình cái ô. - Anh quay sang nói với Delta-Hai đang điều khiển hệ thống radar và vũ khí.
- Rõ. Sẽ bắt đầu ở khoảng cách năm dặm.
Năm dặm! Delta-Một nghĩ. Anh sẽ phải lái chiếc máy bay này vào trong tầm quan sát của hệ thống radar của đối phương rồi mới sử dụng được vũ khí. Anh đoán chắc rằng tàu Goya đang căng mắt quan sát khắp bầu trời và bởi vì nhiệm vụ của đội Delta là diệt gọn mục tiêu, không để cho họ có cơ hội kêu cứu bằng sóng vô tuyến điện, Delta-Một phải kín đáo tiếp cận mục tiêu.
Cách mục tiêu mười lăm dặm, vẫn nằm ngoài tầm quan sát của hệ thống radar trên tàu Goya, Delta-Một bất ngờ lái chiếc máy bay Kiowa lệch sang hướng tây ba lăm độ. Anh cho máy bay lên đến độ cao ba ngàn foot - độ cao thường thấy ở các máy bay hạng nhẹ - và chuyển sang tốc độ một trăm mười hải lý.
Trên con tàu Goya, thiết bị radar của trực thăng cứu hộ bờ biển kêu một tiếng bíp khi một vật thể bay xuất hiện trong bán kính mười dặm. Người phi công ngồi thẳng dậy, quan sát màn hình. Dường như đó là một chiếc máy bay vận tải hạng nhẹ đang di chuyển về phía tây.
Chắc bay đến Newark.
Nếu chiếc máy bay cứ tiến thẳng theo hướng ấy, nó sẽ tiếp cận tàu Goya ở khoảng cách bốn dặm, nhưng rõ ràng chỉ là tình cờ. Tuy nhiên, người phi công vẫn rất cảnh giác, anh chăm chú quan sát những chấm đỏ lập loè bên phải màn hình, chiếc máy bay này di chuyển khá chậm. Giờ nó chỉ còn cách con tàu của họ bốn dặm về phía tây. Chiếc máy bay vẫn bay thẳng, khoảng cách từ máy bay đến con tàu bắt đầu tăng lên.
4,1 dặm. 4,2 dặm.
Viên phi công thở phào nhẹ nhõm.
Rồi một sự kiện kỳ lạ xảy ra.
- Chiến thuật hình cái ô bắt đầu. - Delta-Hai lên tiếng. Anh đang ngồi trên chiếc ghế bên cánh trái máy bay, trước mặt là bảng điều khiển vũ khí. Tiếng ồn gây nhiễu điều biến và hàng rào xung điện đã được khởi động…
Delta-Một ngay lập tức cho máy bay rẽ ngoặt sang phải, thẳng hướng con tàu Goya. Hệ thống radar trên tàu sẽ không thể nhận biết được thay đổi này.
- Sóng radar gây nhiễu đã được khởi động! - Delta-Hai hô to.
Delta-Một gật đầu. Chiến thuật gây nhiễu radar đã được một phi công người Anh đầy mưu trí nghĩ ra từ thời Thế chiến thứ Hai.
Trong khi tiến hành không kích, anh ta đã cho thả những bó cỏ khô bọc giấy thiếc xuống vùng trời đối phương. Quân Đức nhìn thấy quá nhiều vật thể phản quang trên màn hình radar nên chẳng biết bắn vào cái gì. Kể từ đó đến nay, người ta liên tục cải tiến chiến thuật này.
Hệ thống gây nhiễu radar "hình cái ô" được trang bị cho máy bay Kiowa là một trong những phương tiện tác chiến điện tử tối tân nhất. Bằng cách tung ra những sóng âm thanh có biên độ dao động lớn bao trùm đối tượng, máy bay Kiowa có thể vô hiệu hoá mắt, tai, cũng như giọng nói rủa đối tượng. Vừa rồi, chắc chắn toàn bộ màn hình radar trên tàu Goya đều bị nhiễu loạn. Khi thuỷ thủ đoàn muốn phát tín hiệu cấp cứu, họ sẽ hoàn toàn bất lực. Tất cả mọi phương tiện liên lạc trên tàu đều sử dụng sóng điện hoặc vi sóng - không có liên lạc hữu tuyến. Khi máy bay Kiowa đến gần hơn nữa, toàn bộ hệ thống liên lạc trên tàu Goya sẽ ngừng hoạt động; một bức tường bằng sóng âm vô hình do máy bay Kiowa phát ra sẽ có tác động như chiếc đèn pha khổng lồ, mọi sóng liên lạc đều bị vô hiệu hoá…
Hoàn toàn đơn độc, Delta-Một nghĩ. Họ không thể tự vệ.
Những người này đã may mắn thoát chết trên phiến băng Milne. Điều đó sẽ không lặp lại lần nữa. Rachel Sexton và Michael Tolland đã quyết định sai lầm. Đây sẽ là sai lầm cuối cùng trong đời họ.
Trong Nhà Trắng, Zach Herney ngồi nguyên trên giường đờ đẫn, tay cầm điện thoại.
- Ngay bây giờ à? Ekstrom cần nói chuyện với tôi ngay bây giờ à? - Herney liếc nhìn đồng hồ báo thức đặt cạnh giường. Ba giờ mười bảy phút sáng.
- Đúng thế, thưa Tổng thống. - Nhân viên tổng đài của Nhà Trắng đáp. - Ông ấy nói là gấp lắm ạ.

Điểm Dối Lừa - Chương 106

Một mình trong văn phòng, Gabrielle Ashe đứng phân vân bên cửa sổ, không biết nên làm gì tiếp.
Cách đây chưa đến một giờ đồng hồ, cô đã rời khỏi trụ sở NASA trong tâm trạng đầy háo hức muốn được báo ngay cho Thượng nghị sĩ biết về lời nói dối của Cris Harper, Giám đốc Dự án PODS.
Giờ đây, tâm trạng ấy đã tan biến.
Yolanda vừa cho cô biết rằng hai phóng viên độc lập của Đài Truyền hình ABC đang nghi ngờ rằng Sexton đã lén lút nhận tiền của SFF. Thêm vào đó, Gabrielle vừa được biết rằng Sexton thực ra đã biết chuyện cô nghe lén cuộc họp bí mật giữa ông ta và SFF tại nhà riêng, nhưng ông ta lại không hề hé răng nửa lời.
Gabrielle thở dài. Xe taxi đã bỏ đi từ lâu. Chỉ cần vài phút là gọi được ngay xe khác, nhưng Gabrielle biết rằng ngay, lúc này cô có việc phải làm. Không lẽ mình định làm thế thật sao?
Gabrielle nhíu mày, tự nhủ không còn cách nào khác. Cô chẳng còn biết nên tin vào ai nữa.
Ra khỏi văn phòng của mình, Gabrielle bước ra hành lang để sang dãy phòng đối diện. Cuối hành lang là hai cánh cửa gỗ sồi chắc chắn, hai bên treo hai lá cờ, một bên là cờ Old Glory, đối diện với nó là cờ Delaware - phòng làm việc của Thượng nghị sĩ Sexton.
Cánh cửa này, giống như ở hầu hết các phòng làm việc dành cho những Thượng nghị sĩ trong toà nhà này, có khung bằng thép, được trang bị ổ khoá thông thường kèm theo khoá điện tử mở bằng thẻ từ thêm vào đó là hệ thống báo động.
Gabrielle biết rằng nếu cô có thể vào trong, dù chỉ trong vòng vài phút, tất cả sự thật sẽ được phơi bày. Chân vẫn bước lại gần hai cánh cửa nặng nề, nhưng Gabrielle không hề có ý định động đến hai cánh cửa kiên cố này. Cô có những dự định khác.
Còn cách phòng làm việc của Sexton mười mét, Gabrielle rẽ sang phải, vào nhà vệ sinh nữ. Đèn tự động bật sáng, ánh sáng phản chiếu từ những bức tường trắng bóng, nhà vệ sinh nữ sáng trưng. Đợi đến khi mắt đã thích nghi với ánh sáng, Gabrielle ngắm mình trong gương. Như thường lệ, vẻ mặt của Gabrielle luôn khiến cô hài lòng. Những đường nét dịu dàng. Ngược với vẻ ngoài yếu ớt Gabrielle vốn là người rất dẻo dai.
Việc này có thực sự đáng làm không?
Gabrielle biết Sexton đang nóng lòng đợi cô về để có thông tin cụ thể về PODS. Thế nhưng cô vừa mới nhận ra rằng mình đang bị ngài Thượng nghị sĩ xỏ mũi. Gabrielle Ashe không bao giờ chấp nhận được điều đó. Đêm nay, Thượng nghị sĩ tỏ ra không trung thực. Cô cần biết sự thật. Chắc chắn câu trả lời sẽ có trong văn phòng của ngài Thượng nghị sĩ - liền tường với nhà vệ sinh. Năm phút là xong. - Gabrielle nói lên thành tiếng, hạ quyết tâm. Đến bên tủ đựng đồ thay thế trong góc nhà vệ sinh, Gabrielle lần tay lên bên trên khung cửa. Một cái chìa khoá lách cách rơi xuống nền nhà. Các nhân viên tạp vụ trong toà nhà Philip A. Hart đều ăn lương nhà nước, và mỗi khi công đoàn tổ chức đình công thì họ đều biến mất, có đợt đến mấy tuần liền. Cánh phụ nữ trong văn phòng của Sexton, quá mệt mỏi vì chuyện đó và không muốn bị thụ động, đã tự đánh thêm một chìa khoá dự trữ để đề phòng những trường hợp "khẩn cấp".
Đêm nay là trường hợp khẩn cấp, Gabrielle tự nhủ.
Cô mở tủ.
Đằng sau cánh tủ là lỉnh kỉnh những dụng cụ chùi rửa, giẻ lau, giá đựng đồ, giấy vệ sinh. Tháng trước, trong lúc lục tìm giấy vệ sinh, Gabrielle đã tình cờ phát hiện ra. Vì không với được đến giá trên cùng, cô phải lấy cán chổi để chọc, cho một cuộn giấy rơi xuống. Nhỡ tay, cô làm rơi một mảng gỗ ép từ trên trần xuống. Trèo lên để gắn lại tấm gỗ, Gabrielle đột nhiên nghe thấy tiếng Thượng nghị sĩ Sexton đang nói chuyện.
Rõ mồn một.
Thượng nghị sĩ lúc đó đang độc thoại trong nhà tắm dành riêng cho ông. Những tấm gỗ ép tháo rời được là vật duy nhất ngăn cách phòng tắm ấy với cái tủ đựng đồ này.
Lần này, Gabrielle mở tủ không phải để lấy giấy. Cô cởi giầy trèo lên giá, dỡ bỏ tấm gỗ ép dát trần, đu người lên. An ninh quốc gia mà hớ hênh thế này đây, cô nghĩ thầm. Gabrielle sắp vi phạm không biết bao nhiêu đạo luật, cả cấp bang lẫn cấp liên bang.
Lách người qua khe hở trên trần, cô chui sang phòng tắm của Sexton, tì chân vào bồn rửa mặt, rồi tụt xuống nền. Nín thở, cô vào phòng làm việc của Sexton.
Những tấm thảm phương Đông trên sàn thật dầy, thật ấm.